Đến với nhiều địa phương ở miền Tây Nam bộ, dễ nhận ra một loài thực vật thân gỗ, có hoa hồng thắm và cho trái dài vỏ sậm màu, ruột bên trong ăn được – đó là cây ô môi rất quen thuộc với trẻ em vùng sông nước. Có người giải thích cái tên gọi ô môi dân dã, đó là do khi ăn trái này thì môi người từ màu đỏ chuyển sang đen thẫm (ô là đen), người khác lại cho rằng do trái ô môi dài bên trong chứa nhiều ô, gắn liền với mỗi ô là những môi cơm (phần thịt của trái), nên gọi là ô môi. Những cách cắt nghĩa ấy có thể chưa chính xác nhưng được nhiều người dân chấp nhận và lưu truyền.
Cây ô môi mùa hoa nở
Cây ô môi cao lớn, cành lá xum xuê, bởi mọc hoang lâu năm nên quanh thân cây thường có nhiều hốc rỗng do sâu đục khoét. Đây cũng là nơi nhiều loài rắn độc chui vào ẩn náu, vì thế theo kinh nghiệm rất ít người dám leo trèo lên cây ô môi. Khi gió bấc về se lạnh cũng là lúc cây ô môi rụng hết lá, bắt đầu trổ bông. Bông ô môi từng chùm mấy sải tay có màu sắc giống như hoa đào miền Bắc. Trái ô môi còn non có màu xanh lục, đến khi những cơn mưa đầu mùa đổ hột, khoảng sau tiết thanh minh là lúc trái chín, khi đó vỏ trái cứng lại, chuyển sang màu nâu đen, có gân nổi ôm tròn từng khía chạy dài từ đầu đến cuối, cong như mảnh trăng lưỡi liềm. Ô môi già chín, người ta dùng cây tre buộc móc sắt để hái trái chứ không leo lên bẻ vì sợ gặp rắn.
Trái ô môi vừa hái có mùi khăn khẳn, ăn có vị gắt, phải để mấy bữa cho ô môi “nhả” hết nắng thì ăn mới ngon. Khi ăn, người ta dùng dao róc hai bên mép vỏ, ép hai đường gân đôi bên trái lại rồi mới lấy ra những múi ô môi đen nhánh, tròn tròn, có hột dính liền phía trên. Lúc này thịt ô môi có vị ngòn ngọt, cay nồng đặc trưng do được kết tinh trong suốt một năm trời.
Trái và hột ô môi
Ăn phần thịt, người ta giữ lại hột ô môi để dành nấu chè. Để có được một nồi chè hột ô môi phải chuẩn bị khá công phu. Hột được ngâm trong nước nóng suốt đêm cho mềm. Dùng mũi dao nhọn tách bỏ lớp vỏ hột và phần mầm bên trong, giữ lại phần cơm có màu trắng đục. Đậu xanh mảnh ngâm nước lạnh cho tróc vỏ, đem nấu với ít lá dứa vừa lấy màu xanh, vừa tạo mùi thơm, khi đậu xanh đã nhừ mới trút phần cơm hột ô môi vào và đảo đều. Cuối cùng cho vào nồi chè mấy miếng đường thốt nốt, nước cốt dừa xiêm vừa đủ độ ngọt béo. Đêm rằm trăng sáng, múc chén chè cúng bàn ông thiên rồi dọn chè trên chiếc chiếu trải giữa sân, người lớn lẫn trẻ em vừa ăn vừa ngâm nga bài ca vọng cổ của soạn giả Viễn Châu mà thấm thía bao nỗi niềm cảm xúc: Ô môi rụng cánh ngoài sân. Mấy mùa hoa nở mấy năm đợi chờ… Ô môi rụng cánh tơi bời. Chuông tắt lâu rồi, tôi còn đứng mong ai!
Người dân miệt vườn còn ngâm rượu với những múi ô môi màu nâu đen để làm thuốc bổ, giúp ăn ngon miệng, nhuận tràng, chữa đau lưng…
Trần Minh Thương