Tại Viện Hàn lâm Khoa học California, những con cá ngựa lang thang bên trong một chiếc bể kính cao lớn. Chúng sử dụng những cái đuôi tiền sử của mình để bám vào cỏ biển và với nhau. Những con cá ngựa nhỏ và mảnh khảnh như ngón tay, nhưng khi trưởng thành được trưng bày trong Thủy cung Steinhart của Viện Hàn lâm ở San Francisco. Khi một người quản lý đến gần bể, những con cá trưởng thành vội vã đến mặt kính, sau đó bơi lên mặt nước, chờ đợi một bữa ăn. Những con cá may mắn này đã sống một cuộc sống tốt.
Một vấn đề vô cùng tồi tệ
Hồng Kông là trung tâm thương mại lớn nhất thế giới kinh doanh động vật khô. Sarah Foster, giám đốc chương trình Project Seahorse Đại học British Columbia (Canada), phân tích các bảng dữ liệu thương mại toàn cầu mà Hồng Kông chịu trách nhiệm cho khoảng 2/3 tổng lượng cá ngựa nhập khẩu từ năm 2004 đến 2017. Quỹ Động vật hoang dã Thế giới (WWF) báo cáo sự phổ biến cá ngựa khô như một loại thuốc “tăng cường sinh lực” cũng đang thúc đẩy doanh số bán hàng ở Trung Quốc, Đài Loan và Indonesia. Trong khi không ai biết có bao nhiêu con cá ngựa còn lại trên thế giới, các chuyên gia tuyên bố loài này đang bị đe dọa. Với mõm ngựa thu nhỏ và đôi mắt tròn xoe, cá ngựa trông rất khác so với hầu hết các loài cá khác. Trải rộng trên các đại dương rộng lớn, một số con cá ngựa dài chưa đến 2,5cm và một số có thể thay đổi màu sắc để ngụy trang – khiến chúng gặp khó khăn khi phát hiện. Foster nói rằng khoảng 37 triệu con cá ngựa bị bắt trong tự nhiên mỗi năm. Mặc dù các quy định được thiết kế để bảo vệ chúng, buôn lậu vẫn tràn lan. Theo Project Seahorse, nghiên cứu được thực hiện trên khắp thế giới cho thấy quần thể của ít nhất 11 loài đã giảm từ 30% đến 50% trong 15 năm qua. Cá ngựa bán lẻ ở Sheung Wan với giá lên đến 40 HKD (5 USD) mỗi con. Về lý thuyết, cá ngựa là động vật được bảo vệ – tất cả các loài được liệt kê theo Phụ lục II của Công ước CITES – một công ước quốc tế được thiết kế để đảm bảo rằng việc buôn bán quốc tế động vật và thực vật hoang dã không đe dọa sự sống còn của chúng. Với danh sách này, cá ngựa chỉ có thể được xuất khẩu nếu chúng có nguồn gốc bền vững và hợp pháp, kèm theo giấy tờ để chứng minh điều đó. Một số quốc gia – bao gồm Thái Lan, Philippines và Indonesia – đã đi xa hơn và áp dụng lệnh cấm xuất khẩu cá ngựa. Nhưng những nỗ lực này vẫn không thể cứu được cá ngựa, Foster nói. Thay vào đó, các lệnh cấm đã tạo ra một thị trường đen. Các nhà điều tra đã thẩm vấn 220 thương nhân về nguồn gốc cá ngựa của họ trong năm 2016 và 2017 và thấy rằng ước tính 95% được nhập khẩu từ các quốc gia có lệnh cấm xuất khẩu. Các thương nhân tiết lộ rằng Thái Lan là nhà cung cấp số 1 cho các cửa hàng thuốc cổ truyền Hồng Kông – mặc dù nước này chính thức tạm dừng xuất khẩu từ tháng 1-2016. Cá ngựa khô nhỏ và không dễ hư hỏng, dễ dàng được nhập lậu qua biên giới, đôi khi trong các lô hàng hỗn hợp với các hải sản khô khác. Một số thương nhân trong dự án của Foster đã thừa nhận mang chúng đến Hồng Kông trong vali du lịch. Với giao dịch hiện đang hoạt động trong bóng tối, “chúng tôi khó theo dõi, theo dõi và quản lý nó hơn rất nhiều”, Foster nói. Các cửa hàng thuốc Trung Quốc ở Sheung Wan không vi phạm luật bán cá ngựa. Người phát ngôn của Bộ Nông nghiệp, Ngư nghiệp và Bảo tồn (AFCD) của chính phủ Hồng Kông nói rằng các biện pháp của Công ước đối với cá ngựa được thiết kế để kiểm soát xuất nhập khẩu, nhưng luật pháp Hồng Kông không cấm buôn bán trong lãnh thổ. Tuy nhiên, AFCD đã cố gắng ngăn chặn việc nhập khẩu bất hợp pháp. Năm 2018, chính quyền Hồng Kông đã bắt giữ 45 lô hàng cá ngựa khô nặng tổng cộng 470kg – tức khoảng 175.000 con cá ngựa. Trong khi đó, hình phạt nặng nhất cho một kẻ buôn lậu chỉ… 4 tháng tù. Thị trường y học cổ truyền Trung Quốc có lẽ đang thúc đẩy nhu cầu về cá ngựa nhưng vấn đề cơ bản không phải là y học Trung Quốc – “đó là ngành đánh bắt cá”. Foster giải thích cá ngựa là động vật tương đối hiếm nên chúng thường không được các tàu đánh cá nhắm đến. Tuy nhiên, khi dụng cụ câu cá bừa bãi được sử dụng, chúng sẽ bị cuốn vào lưới cùng với mọi thứ khác. Do là một mặt hàng có giá trị, cá ngựa thường được gỡ từ lưới đánh cá rồi đem bán. Foster cho biết cách duy nhất để cứu cá ngựa là quản lý nghề cá tốt hơn.
Cá ngựa trong y học Trung Quốc
Cá ngựa được cho là có sức mạnh giống Viagra. Cá ngựa được đề cập lần đầu tiên trong tài liệu y học Trung Quốc từ xa xưa nhưng việc sử dụng chúng có thể còn đi xa hơn nhiều, Lashing Lao, giám đốc Trường Y học Trung Quốc Đại học Hồng Công cho biết: “Theo lý thuyết y học Trung Quốc, cá ngựa nuôi dưỡng… và cung cấp cho cơ thể nhiều năng lượng hơn”. Pha với các loại thảo mộc và đun sôi như trà, cá ngựa khô được sử dụng phổ biến nhất để điều trị hen suyễn và rối loạn chức năng tình dục nam, bao gồm bất lực và xuất tinh sớm. Lashing Lao cho biết không có bằng chứng khoa học nào cho thấy cá ngựa có thể làm giảm hen suyễn hoặc tăng hiệu suất tình dục, thêm vào đó chưa có bất kỳ thử nghiệm lâm sàng nào được thực hiện trên người ở lĩnh vực này. Victor Cheng nghiêng người qua bàn làm việc, trong một công viên nhỏ, ở San Jose, California. Ông cúi người trên một cuốn bách khoa toàn thư y học dày cộp của Trung Quốc, săn lùng từ “hai ma” (cá ngựa). Cheng, tốt nghiệp UC Berkeley và UCLA, hành nghề y học cổ truyền Trung Quốc ở California và tại Bệnh viện Shuguang ở Thượng Hải. Khi tìm thấy từ “cá ngựa” trong cuốn bách khoa toàn thư, ông đã dịch mục này. Những ghi chép đầu tiên về việc sử dụng cá ngựa trong y khoa đã xuất hiện khoảng 2.000 năm trước trong sách cổ Trung Hoa. Chúng thường được ngâm trong rượu, hoặc đun sôi như một loại trà, để tăng số lượng và hoạt động của tinh trùng. Trong khi y học Trung Quốc có lịch sử 2.000 năm với cá ngựa, Cheng nói rằng ngày nay chúng “khác xa với các loại thảo mộc thường được sử dụng” và “tôi thậm chí còn nghĩ rằng cá ngựa được dự trữ trong các bệnh viện lớn ở Trung Quốc”. Cá ngựa được coi là một phương thuốc dân gian – giống như một phần bổ sung vitamin. Một bác sĩ sẽ kê đơn thuốc gì đó tăng cường sinh lý, ví dụ như dương vật cá ngựa, Cheng nói. Y học cổ truyền Trung Quốc hiện vẫn cung cấp cho phần lớn nhu cầu toàn cầu. Để hiểu lý do tại sao, hãy xem xét quy mô dân số Trung Quốc và hệ thống chăm sóc sức khỏe nước này, Cheng nói. Trung Quốc là nhà của hơn một tỷ người. Hãy tưởng tượng nếu chỉ 1% trong số đó mua một con cá ngựa mỗi năm. Điều đó vẫn sẽ nhu cầu tiêu thụ đến hơn chục triệu con vật. Các phương thuốc gian (trong khi đôi khi gây nghi ngờ), vẫn phổ biến vì chăm sóc sức khỏe đặc biệt không mấy dễ chịu ở Trung Quốc. Thay vì đến khám ở một bác sĩ không mấy tin tưởng, người dân nông thôn tìm đến các bệnh viện đô thị có uy tín (và đông đúc), để gặp một bác sĩ có uy tín, Cheng nói. Họ có thể đợi hàng dài hàng giờ, thậm chí ngủ trên sàn trước khi được khám. Do đó mà các phương pháp điều trị tại địa phương, như sử dụng cá ngựa, là một lựa chọn hấp dẫn.
Nuôi trồng tương lai
Ngày nay, hầu hết cá ngựa nhập khẩu có nguồn gốc đánh bắt tự nhiên. Nhưng các lựa chọn thay thế, như nuôi nhốt, vẫn tồn tại. Trang trại đặc biệt hứa hẹn cho các ngành nghề nuôi thú cưng và thủy cung, nơi các mẫu vật nuôi nhốt trở nên phổ biến sau khi những loài hoang dã trở nên khó mua hơn. Ví dụ như giống cá ngựa “bụng phệ” bu kín mặt kính trong Viện Hàn lâm Khoa học California – nơi chúng được sinh ra và lớn lên trong hàng ngàn điều kiện nuôi nhốt cách xa quê hương Australia của mình. Steven Yong làm việc ở Viện và là Điều phối viên Chương trình Sinh tồn Loài, có nguồn gốc ở vùng duyên hải miền Đông nước Mỹ. Cá ngựa, theo như Yong nói, đang gặp sự thách thức trong tình trạng nuôi nhốt, bởi vì những con cá con hiếm khi sống sót đến tuổi trưởng thành. “Cá con nhỏ xíu cần thức ăn nhỏ”, ông nói. Thay vì thịt cá, hầu hết các bể cá đều nuôi cá ngựa bằng con tôm ngâm nước muối – loại thực phẩm này nhỏ và tương đối rẻ tiền, nhưng cung cấp dinh dưỡng hạn chế. Do đó, các cơ sở như Viện Hàn lâm đang nghiên cứu phát triển các lựa chọn thực phẩm sống khác, để mô phỏng sự đa dạng trong chế độ ăn uống của cá ngựa trong tự nhiên. Yong cho biết trong khi các bể cá “cố gắng hạn chế các bộ sưu tập hoang dã của chúng tôi”, các chương trình nhân giống vẫn còn thua xa các loài động vật trên cạn hoặc thậm chí là cá nước ngọt. Các nhà khoa học hiện nay vẫn còn chưa biết đầy đủ về nhiều quần thể hoang dã để đưa chúng vào môi trường hồ cá. Nhưng một ngày nào đó, những nhà khoa học như Yong hy vọng sẽ cho ra đời những con cá ngựa hoàn hảo trong môi trường nuôi nhốt để không còn phải thu thập chúng từ đại dương. Trên khắp Thái Bình Dương ở Hawaii, Australia và Sri Lanka, các trại nuôi cá ngựa hiện nay đã phát triển khá rầm rộ. Ví dụ như Carol Cozzi-Schmarr đã nuôi cá ngựa ở Kona (Hawaii), từ năm 1998. Trang trại mang tên gọi Ocean Rider của Carol cung cấp 30 loài cho thị trường vật nuôi cảnh và bảo tồn toàn cầu. Carol cho biết: “Chúng tôi đã làm điều đó để cung cấp một giải pháp thay thế cho việc đánh bắt cá ngựa từ đại dương. Nếu chúng ta không bảo tồn loài này, sẽ không ai gặp lại chúng nữa trong tương lai không xa”.
Ngày nay, Ocean Rider đủ lớn để cung cấp cho thị trường vật nuôi cảnh hàng ngàn con cá ngựa trong một năm. Mặc dù vậy, việc nuôi nhốt không có khả năng phổ biến hoặc đủ hiệu quả về chi phí để cung cấp cho thị trường y học cổ truyền vốn rộng lớn hơn nhiều, Sarah Foster của Project Seahorse cảnh báo. Carol, Foster và Yong nhấn mạnh toàn bộ bức tranh về hoạt động đánh bắt cá, nhu cầu thị trường đang tồn tại và môi trường sống đang bị mất đi như một vấn đề rối rắm, xấu xa. Yong bình luận: “Cá ngựa hiện vẫn còn chịu đựng quá nhiều áp lực đang gây ra sự suy giảm loài trong tự nhiên”. Trong khi mà hoạt động đánh bắt cá vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể thì việc lập nhiều trại nuôi cá ngựa vẫn chưa đủ. Nếu xu hướng đánh bắt hải sản vô tội vạ trên toàn cầu vẫn cứ tiếp tục thì một số loài có thể biến mất hoàn toàn khỏi tự nhiên và các nhà bảo tàng có thể là nơi cuối cùng để nhìn thấy những con cá nhỏ lôi cuốn này.
Xem thêm: