Chiến tranh đã có mặt ngay từ lúc con người xuất hiện trên trái đất. Ngay sau khi người đàn ông (adam) và đàn bà (eve) đầu tiên đẻ ra hai đứa con trai đâu tiên, đã có cảnh giết nhau! Chiến tranh tất nhiên phải có phòng thủ. Và phòng thủ trước tiên là cái đầu! Từ lúc chiến đấu bằng tay chân cho đến đao kiếm, qua súng đạn, máy bay tàu ngầm và bom nguyên tử, vũ khí hóa học, con người đã tìm mọi cách để bảo vệ cái đầu của mình. Nhưng ở đây ta chỉ bàn đến lịch sử 100 năm của chiếc nón sắt…
Mặc dù người lính đã có được vật dụng bảo vệ cái đầu của mình từ ít nhất là thế kỷ thứ 26 trước Công Nguyên, chiếc nón sắt thực sự là một phát minh trong thế kỷ 20. Và nó đã thay đổi nhanh chóng. Khởi đầu từ Thế chiến 1, chiếc nón sắt tiêu chuẩn của quân đội Mỹ đã tiến hóa từ một cái nón thiết, thành một cái vỏ bất khả xuyên thấu, thách thức những viên đạn có tốc độ cao của ngày hôm nay. Cái đã có lúc chỉ là một miếng thép đơn giản, bây giờ được chế tạo bằng hợp chất composite của thời đại không gian, có thể chận được những viên đạn AK47, đại liên… chết người.
Sau hơn 100 năm chiếc nón sắt đầu tiên của quân đội Mỹ được đưa vào xử dụng, người ta đang có những tiến bộ thần tốc trong việc chế tạo, do khả năng kỹ thuật ngày càng siêu việt,ngoài sức tưởng tượng. Đây là cuộc hành trình 100 năm của chiếc nón sắt Mỹ.
Nón sắt quay trở lại
Với sự phổ biến của thuốc súng trong thế kỷ 16, pháo binh Âu châu bắt đầu bỏ giáp sắt. Gươm và giáo không đáng sợ bằng súng hỏa mai. Ngay cả áo giáp cũng bị giới hạn xử dụng để chống đạn, và người lính có quá nhiều thứ để mang theo. Mặc dù một số đơn vị kỵ binh còn xử dụng nón sắt và lá chắn ngực, pháo binh đã bỏ chúng từ lâu trước khi phát khởi Thế chiến 1. Và nón mềm hay nón kết đã trở thành tiêu chuẩn của quân đội các nước lúc đó.
Trong Thế chiến 1, một loại vũ khí đã chứng tỏ khả năng sát thương đặc biệt: mảnh vỏ đạn nổ phía trên chiến hào. Năm 1915, các đội quân vội vã trang bị nón sắt, khi đó được gọi là nón thiết. Chiếc nón lúc đó trông rất khôi hài. Một người lính Pháp kể lại: Chúng tôi cười ngặt nghẽo khi đội nón, nó giống như chiếc nón lễ hội vậy! Nhưng nó đã giảm được bị thương đầu từ 70% xuống còn 22%.
Quân đội Mỹ được trang bị chiếc nón sắt M1917 Kelly, bắt chước từ chiếc nón sắt Brodie của người Anh. Đó chỉ là một miếng thép mangan, ép theo hình cái chén, nặng khoảng 0,7kg. Có dây viền lót để tránh cọ xát và quai bằng da. Chiếc quai này có nhược điểm là khi cột vào rất khó gỡ ra, dẫn đến hậu quả chết chóc khi người lính bị vướng vào trở ngại. Nó cũng gây khó chịu, nhưng có thể bảo vệ mạng sống trước những mảnh đạn nổ. Thông thường nón sắt được sơn màu ô liu, để chống phản quang, nhưng một số đơn vị cũng sơn theo màu riêng của mình.
Nón sắt Kelly được quảng cáo là chống được đạn súng colt 45, ở tốc độ 180m/giây. Nhưng trong thực tế nó phải đến 240m/giây, hay hơn nữa. Súng ngắn nòng 9mm của Đức còn xuyên thấu mạnh hơn. Đạn súng trường và súng máy thì xem như thua!
Biểu tượng của Thế chiến 2
Năm 1942 có một chút thay đổi khi quân đội Mỹ đưa vào xử dụng chiếc nón sắt M1, nổi tiếng qua hàng ngàn bộ phim chiến tranh, từ Bãi biển Iwo Jima cho đến Giải cứu binh nhì Ryan. Đó là hình tượng một người lính Mỹ GI, khi mặc đồng phục. Đặc trưng của nó là cái vành trước trán để ngăn chặn nước mưa rơi xuống mặt. Nón M1 không dày hơn Kelly, nhưng che được ót nhiều hơn. Không chăn được viên đạn, nhưng có thể làm cho nó chậm lại. Tháng 2.1945, lúc chạm súng với quân Nhật tại Philippines, trung sĩ Amelio Pucci bị bắn trúng và ngã xuống với một lổ thủng ở giữa nón sắt. Đơn vị tưởng anh chết, nhưng chỉ mấy phút sau Pucci đã tỉnh dậy, với một vết thương nhỏ trên đầu. Toàn bộ lực của viên đạn đã bị tiêu tán khi chui qua chiếc nón M1.
Nặng khoảng 1,3kg, nón sắt M1 có một cái niềng da, mở rộng hay thu hẹp được cho vừa với kích thước xương sọ của bất kỳ người lính nào. Nó cũng có chiếc quai dễ tháo để phòng ngừa bị kẹt. Niềng da có thể tháo rời để xử dụng nón sắt như một chiếc xô đựng nước, cối đâm cua đồng, hay nồi nấu cơm, hoặc ghế ngồi!
Cho đến cuối Thế chiến 2, đã có trên 22 triệu nón sắt M1 được sản xuất, và nó tiện lợi đến mức đã được xử dụng trong chiến tranh Triều Tiên và cả Việt Nam! Vừa vặn cho mọi kích cỡ đầu người nên có thể sản xuất hàng loạt. Khá nhẹ và đa dụng nên M1 có thể phổ biến đại trà. Đó là kiểu nón sắt thành công nhất, tồn tại được trên 40 năm. Nhiều quốc gia cũng bắt chước làm theo. Nếu có đối thủ cạnh tranh trong Thế chiến 2 thì chính là chiếc nón Stahlhelm của người Đức. Nó phức tạp hơn vì được ghép lại từ nhiều mảnh thép, và được sản xuất với nhiều kích cỡ. Tạo ra tầm nhìn rộng hơn M1, khiến cho các nhà thiết kế Hollywood bắt chước để tạo ra chiếc nón sắt của nhân vật Darth Vader trong bộ phim Chiến tranh các vì sao!
Nhưng khi chiến tranh thay đổi, quân đội cũng thay đổi theo để đối phó với những thách thức mới của thời đại không gian. Được Israel xử dụng làm nón đầu tiên, sợi Kevlar mới phát hiện vốn là áo giáp chống đạn. Nó cũng được quân đội Mỹ dùng làm “nón sắt” thế hệ mới. Đó là sợi được tẩm keo, nhưng cứng hơn thép và rất nhẹ. Cùng với áo giáp, nón sắt loại này tạo ra Hệ thống bảo vệ cá nhân của Bộ binh – PASTGT – (đọc là Pass-get) được áp dụng từ năm 1983 cho quân đội Mỹ. Nón sắt loại này được gọi là K-Pot, hay Fritz vì giống với chiếc nón Stahlhelm của Đức.
Kevlar bảo vệ cơ thể rất tốt. Nó không chỉ chăn được viên đạn colt 45 với tốc độ thật, mà cả đạn nòng 9mm, và súng ngắn Magnum. Trong chiến dịch Bão táp Sa mạc năm 1991, bộ áo giáp Kevlar bảo vệ người lính GI rất tốt.
Cập nhật thế kỷ 21
K-Pot được tiếp nối bằng Nón sắt chiến đấu hiện đại – Advanced Combat Helmet, hay ACH năm 2002. Đó là tổng hợp của Kevlar và sợi đạn đạo hiện đại, gọi là TWARON. Nó có niềng chống sốc, để bảo vệ cái đầu trước những chấn động lớn như tông xe. Thiết kế mới nhằm gia tăng tầm nhìn và nghe. Khác với nón sắt các thế hệ trước, ACH được thiết kế để còn mang thêm các thiết bị quân sự hiện đại khác. Phía trước là kính bảo vệ mắt trong điều kiện sa mạc. Kính hồng ngoại để nhìn ban đêm và caméras. Cả bộ tai nghe để liên lạc từ xa nữa. ACH cũng có thể kèm theo các thiết bị hạt nhân, sinh học và hóa học – NBC.
Trong lúc ACH chỉ mong chống đỡ được đạn súng ngắn, nó lại chứng minh có khả năng vượt trội hơn nhiều. Thiếu úy Tom Albert đang đi tuần tra tại Afghanistan vào năm 2012, thì có cái gì đó tông vào “nón sắt” khiến anh ngã xuống. Anh nói với bạn: Tôi nghĩ mình bị trúng đạn. Đúng. Nhưng anh vẫn tỉnh queo. Sau đó người ta phát hiện đó là một viên AK47. Nó đã bị chiếc nón chận lại hoàn toàn.
Rồi đến năm 2011, chiếc nón Enhanced Combat Helmet – ECH ra đời. Nhìn bên ngoài nó giống như ACH. Thật khó nói sự khác biệt. ECH dày hơn, nhưng nhẹ hơn. Khác biệt cực kỳ về khả năng bảo vệ. Khác với Kevlar, nó được làm từ polyethylene trọng lượng phân tử cực cao, gọi là UHMWPE. Đó là một dạng đặc biệt của nhựa để làm chai nước uống, túi đựng bánh kẹo và giấy gói sandwich. Nhưng nón sắt làm từ một phân tử lớn hơn với những chuỗi nguyên từ dài gấp trăm lần nhựa thông thường.
ECH không chỉ ngăn chặn được đạn súng ngắn, như được chứng minh trong một cuộc tấn công trại Maiwand ở phía đông Afghanistan năm 2018. Trong trận này hạ sĩ Steven McQueen bị trúng một viên đạn súng đại liên đặt trên xe tải, cách anh ta chỉ có 6 mét! Nó mạnh hơn viên đạn AK47 bắn trúng Albert tại Irak rất nhiều. McQueen bị gục xuống đất, nhưng chỉ mấy giây sau đó anh đã đứng lên như… không có gì! Chiếc nón ECH đã chặn hoàn toàn được viên đạn. ECH cũng chặn được miễng đạn nổ rất hữu hiệu. Trong lịch sử 4.500 năm của chiếc nón sắt, ECH là số một.
Một chiếc nón còn hiện đại hơn!
Dù ghê gớm đến như thế, ECH vẫn bị soán ngôi bởi chiếc nón mới nhất Integrated Head Protection System hay IHPS. Trung tá Ginger Whitehead, giám đốc sản xuất Thiết bị bảo vệ quân đội Hoa Kỳ cho biết: Chúng tôi đã trang bị IHPS cho Trung đoàn 2 trợ giúp Lực lượng An Ninh.
Nón sắt IHPS có cái mà quân đội gọi là hệ thống kềm giữ không cần ốc vít, có nghĩa là không cần phải khoang lổ trên nón để giữ chiếc niềng da, làm cho nó bị yếu đi. Nó còn bảo vệ cho chiếc hàm dưới, và cả hai mắt với tầm nhìn bao quát không bị giới hạn. IHPS bảo đảm người lính 100% không bị chấn thương nặng so với ECH. Nó còn có hai điểm nối kết, để có thể gắn vào bất cứ thiết bị nào, như hệ thống nhìn vào ban đêm.
Thế hệ kế tiếp của IHPS sẽ ra đời vào năm 2020. Chất liệu xử dụng có tên là graphene, gốc carbon siêu cứng, hay tơ nhện! Chúng sẽ làm cho chiếc nón sắt nhẹ và cứng hơn bao giờ hết. Nhưng hiện nay sản xuất ra chưa đủ số lượng để cung cấp cho nhu cầu của quân đội Mỹ. Khuynh hướng của nhà chế tạo là thay vì bảo vệ tối đa khuôn mặt, sẽ là bảo vệ hoàn toàn! Mọi thông tin về mục tiêu được trải ra trên màn hình: từ máy bay không người lái đến các thiết bị thăm dò từ xa. Chiếc nón theo kiểu Người Sắt của Hollywood sẽ được lắp ghép vào mọi loại thiết bị điện tử.
Thay đổi rất nhiều đã xảy ra từ lúc người lính bì bõm trong những chiến hào lầy lội của Thế chiến 1. Trong lúc thiết bị chiến tranh hiện đại bao gồm cả chiến đấu cơ vô hình, tia laser tàn khốc, máy bay không người lái, tên lửa siêu thanh, người lính bộ binh trên mặt đất vẫn giữ vai trò quyết định. Khi nào sự thực này vẫn còn tồn tại, quân đội Mỹ vẫn tiếp tục sản xuất những chiếc nón sắt mới hơn và tốt hơn.
Whitehead nói: Chúng tôi đang mắc nợ người lính chiến!