Sự truyền bá ồ ạt về lượng như thế, không phủ nhận, mang lại một số lợi thế bước đầu cho Trung Quốc, song không tránh khỏi những nhược điểm lớn. Khoa học là một công cụ để nhận thức thế giới. Dựa trên thông tin, bằng chứng chuẩn xác sẽ dẫn đến một nhận định khách quan, đúng đắn. Ngược lại lồng vào khoa học những mục đích chính trị tuyên truyền sẽ đưa đến những lệch lạc về góc nhìn. Trong bài toán tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông hiện nay, khoa học và các nhà khoa học dường như đang đứng trước một sứ mạng nặng nề. Trong khi vừa phải “đi tìm chân lý” thông qua các khảo sát về lịch sử, địa lý, quan hệ quốc tế,… một cách nghiêm túc, vừa phải chịu sức ép để chọn lọc ra những điều không ảnh hưởng đến lợi ích lãnh thổ quốc gia. Sứ mạng này không là mặc định, và cũng đi ngược lại phần nào nguyên tắc “tôn trọng và chỉ đi tìm sự thật” của công việc nghiên cứu, nhưng là “nguyên tắc ngầm” tự hiểu, nhất là đối với những phe tranh chấp với bằng chứng và lập luận còn kém thuyết phục hơn.
Thứ nhất, các “kiến tạo lịch sử” về mặt bản chất mâu thuẫn rất lớn so với sự thật lịch sử. Các “tư liệu nhân tạo” không những có độ vênh với các bằng chứng đã lưu truyền trong sử sách, bản đồ và dã sử, mà còn tạo nên tình trạng “tiền hậu bất nhất” ngay cả trong nội bộ khi phải đi tìm một biện pháp thương thuyết đàng hoàng với các đối tác khác. Khi các tài liệu được công bố và trình bày công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng hay mạng lưới toàn cầu, sẽ biến tất cả bằng chứng thành kệch cỡm. Người ta có câu tự thuyết phục được mình rồi mới có thể thuyết phục người. Rõ ràng, các mâu thuẫn này khiến cho tồn tại pháp lý của Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông, nếu đem so sánh với Việt Nam hoàn toàn bị lép vế, không có giá trị và mục đích hàng đầu của nó hiện tại chỉ là để cổ vũ cho một “chủ nghĩa dân tộc nước lớn” trỗi dậy mạnh mẽ từ bên trong.
Thứ hai, các “kiến tạo lịch sử” này xét về lâu dài hoàn toàn không bền vững; lịch sử được chắp vá và thêm thắt không phải là lịch sử đúng nghĩa. Trung Quốc chỉ có thể “che đậy” sự thật ở một chừng mực nhất định nào đó. Công việc của một nhà nghiên cứu lịch sử chân chính chính là tìm ra sự thật khách quan nhất thông qua một sự tiếp cận nghiêm túc và khách quan. Các nhà lịch sử nước ngoài hay Việt Nam hoàn toàn có thể chỉ ra được những điểm mâu thuẫn trong các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh dựa trên các “sai lệch lịch sử” đó, nếu tìm hiểu đúng phương pháp. Thậm chí nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng đồng tình với quan điểm rằng các lập luận lịch sử về đường lưỡi bò là hết sức vô lý.
Lịch sử cho dù vô tình hay cố ý “bị” sửa chữa chắc chắn không bao giờ chạm đến bản chất của sự thật. Các cố gắng kiến tạo lịch sử và xây dựng mặt trận dư luận quốc tế cần tìm đường tiệm cận gần nhất đến sự thật. Các nhà chiến lược và chính phủ trung ương chắc chắn đã nhận ra được việc bất khả thi đó và các bước đi tiếp theo của Bắc Kinh tập trung vào về hành chính, kinh tế và quân sự như trong khoảng thời gian gần đây, khi Trung Quốc tăng cường tiến hành gây hấn và hiện đại hóa quân đội, hành chính – quân sự hóa Tam Sa hay đưa mấy ngàn tàu cá ra biển. Chưa bao giờ như lúc này Việt Nam cần chỉ rõ cho thế giới thấy lý lẽ của chúng ta. Cũng chưa bao giờ như lúc này Việt Nam cần cho thế giới thấy cách tiếp cận của ta là khác Trung Quốc, theo nghĩa ta tìm giải pháp hòa bình, công bằng dựa trên những bằng chứng xác đáng của lịch sử chứng minh. Lẽ phải chỉ trở thành nhận thức khi nó được truyền đạt qua những kênh thông tin hiệu quả. Trên hết, nên tránh chỉ đề cập những điểm chung chung, chiến lược tuyên truyền hay “phản tuyên truyền”. Trước những quan điểm hay bằng chứng sai lệch của Trung Quốc, cần đi vào những điểm hết sức cụ thể, dựa trên hệ thống lập luận và dẫn chứng chuẩn xác, phù hợp với chuẩn mực và tập quán chung của cộng đồng thế giới. Điều này cần sự hợp sức giữa Chính phủ, Bộ Ngoại giao và các học giả tâm huyết trong lẫn ngoài nước. Tấn công vào sự không chính đáng của Bắc Kinh đồng thời thách thức họ trên các mặt pháp lý và dư luận quốc tế, mặt trận mà dường như Việt Nam có ưu thế hơn cả. Những bước đi này sẽ có tác dụng cô lập Trung Quốc hơn nữa và khiến cho thế giới thấy được tính “không chính nghĩa” của Bắc Kinh.
Có thể Trung Quốc bằng cách này hay cách khác vẫn tiếp tục cố gằng tìm cách tạo ra các chứng cứ lịch sử có lợi cho mình. Tuy nhiên Bắc Kinh nên nhận ra nằng lịch sử vốn luôn có giá trị riêng của nó, phủ nhận lịch sử bao giờ cũng phải trả giá đắt. Nhà thơ Rasul Gamzatov từng phát biểu rằng: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác”. Một Bắc Kinh trỗi dậy mạnh mẽ bằng sức mạnh thủy lôi, tàu chiến, tên lửa hạng nặng đang ngày càng bị cô lập về mặt công luận và lòng người, các lý lẽ của họ bị phản bác ngày càng nhiều ngay cả trong chính từ các học giả của mình. Có lẽ đã đến lúc các nhà chính trị cũng như các phe cổ động cho việc “kiến tạo lịch sử” Trung Quốc nên nhìn nhận lại vấn đề để không phải tổn thương thêm bởi những “viên đại bác” của tương lai.
Nguyễn Chính Tâm