Đòn bẩy tài chính: con dao hai lưỡi
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam là một điều kiện tốt giúp phát triển tín dụng cho khu vực công cũng như tư, hệ quả là dư nợ trong nước ngày càng tăng, nền kinh tế ngày càng phát triển. Khi kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh dẫn đến tiết kiệm tăng, và trong điều kiện hệ thống ngân hàng trong nước ngày càng được người dân tín nhiệm, nguồn tiền gởi vào ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Trong những năm đầu phát triển của hệ thống ngân hàng, nguồn tiền này gần như gia tăng theo cấp số nhân. Nguồn vốn tăng mạnh trong hệ thống ngân hàng đặt ra nhu cầu phát triển tín dụng và nhu cầu phát triển tín dụng, đến lượt nó, đòi hỏi những giải trừ quy định trong ngành ngân hàng: không cần phân biệt ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, có nghĩa là ngân hàng được vay ngắn và cho vay dài – tất nhiên trong một giới hạn tỷ lệ nào đó); vì tín dụng ít rủi ro, doanh nghiệp đang ăn nên làm ra, ngân hàng được cho vay thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay, dẫn đến sự tăng trưởng ngoạn mục các khoản vay tiêu dùng cá nhân, mua nhà, mua xe, mua cổ phiếu… Bên cạnh đó, vẫn còn có những khoản tín dụng lớn nhưng kém hiệu quả cho các xí nghiệp nhà nước, được hình thành từ cơ chế bao cấp còn sót lại. Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và của thị trường bất động sản xét cho cùng vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của sự bùng nổ tín dụng ngân hàng trong thời kỳ 2004-2007. Mọi người, cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, đều tận dụng tối đa điều được gọi là đòn bẩy tài chính, lúc đó được coi như một yếu tố thể hiện bản lĩnh của nhà đầu tư. Khi giá nhà đất và chứng khoán đang lên như diều gặp gió, các ngân hàng sẵn sàng khuyến khích tối đa đòn bẩy tài chính trong một cuộc chơi mà họ đánh giá là nhiều lợi nhuận, ít rủi ro. Tăng trưởng nợ trong thời kỳ đó đã nhanh chóng thổi bùng lên bong bóng giá nhà đất và chứng khoán, đồng thời cũng tạo nên một tầng lớp nhà giàu mới tại thành thị lẫn vùng nông thôn ven đô, nơi không gian phát triển đang lan đến.
Nhưng nếu sử dụng đòn bẩy tài chính với tỷ lệ cao sẽ mang đến lợi nhuận lớn trong thời kỳ kinh tế thịnh vượng, đến khi kinh tế khó khăn, cái giá thiệt hại phải trả sẽ lớn không kém. Khi cơn bão khủng hoảng xảy ra, điều chúng ta dễ thấy là những cá nhân, những doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính quá nhiều sẽ nhanh chóng bị nhấn chìm trước nhất. Tuy nhiên, điều chúng ta khó thấy hơn là tiến trình tháo gỡ đòn bẩy tài chính (deleverage) tức là tiến trình giảm nợ – tình hình trong đó hàng loạt doanh nghiệp đua nhau trả nợ vay bằng cách bán tháo sản phẩm, do thúc bách của ngân hàng và do e sợ hàng hóa, sản phẩm (nhà cửa, cổ phiếu) sẽ còn giảm giá hơn trong tương lai do tình trạng bán tháo – sẽ làm cho nền kinh tế có thể lâm vào tình trạng giảm phát, giá cả sụt giảm, doanh nghiệp phá sản, lao động mất công ăn việc làm. Khi giá cả hàng hóa sụt giảm, sức mua của đồng bạc tăng và hậu quả là gánh nặng nợ nần thực (real) tăng lên dù cho tổng nợ tính bằng tiền đồng có giảm được đôi chút. Nhà kinh tế học Irving Fisher đã khái quát hóa tình trạng này bằng một nhận xét nổi tiếng “Càng trả nợ, càng mắc nợ” (The more the debtors pay, the more they owe).
Giải quyết nợ là then chốt để phục hồi kinh tế
Do đó, ngăn chặn vòng xoáy nguy hiểm này là điều mà các chính phủ phải nghĩ tới như kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy. Trong tình hình khó khăn hiện nay, việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình bày trước Quốc hội trong kỳ họp mới đây kế hoạch xử lý hơn 100 ngàn tỉ đồng nợ xấu của các ngân hàng thương mại bằng cách phối hợp với các bộ ngành để thành lập một công ty mua bán nợ quốc gia, là một tín hiệu cho thấy tính chất khẩn trương của việc giải quyết tình trạng nợ đóng băng trong nền kinh tế. Có thể có nhiều chuyên gia không tán đồng việc dùng tiền thuế của dân để xử lý nợ của doanh nghiệp làm ăn có vấn đề, dù là công hay tư, hoặc không tin tưởng vào tính khả thi của một công ty mua bán nợ quốc gia, hoặc đặt dấu hỏi về tính chất khách quan của việc xử lý nợ, ai sẽ được cứu lên thuyền và ai sẽ chìm vào cơn sóng dữ. Tuy nhiên, nói gì thì nói, có một hành động vẫn tốt hơn là không hành động gì. Kế hoạch xử lý nợ dù là cho ngân hàng hay cho doanh nghiệp, kết quả đạt được đều tốt như nhau, là một việc cần thiết phải làm và làm càng sớm càng tốt.