Chế độ nô lệ là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất hiện nay. Mặc dù ai cũng đồng ý rằng nó thật tồi tệ, nhưng có lẽ chúng ta chưa bao giờ được học đầy đủ về nó ở trường.
Chế độ nô lệ phức tạp hơn nhiều so với điều mà chúng ta nghĩ, và trái với những gì mọi người nghĩ, không phải chỉ có người da đen làm nô lệ. Người da trắng cũng bị bắt làm nô lệ.
Các chủ nô đã tạo ra một cuốn kinh thánh khác dành cho nô lệ
Một số chủ nô đã dạy chữ cho nô lệ và cải đạo cho họ sang Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, họ không thể cho phép những nô lệ này đọc Kinh thánh vì trong đó có chứa những đoạn chống lại chế độ nô lệ. Những người chủ nô đã tìm cách khắc phục điều này bằng cách loại bỏ hầu hết các chương trong kinh Cựu Ước và một đoạn dài trong kinh Tân Ước.
Kết quả là một cuốn Kinh thánh bị loại bỏ nhiều phần mà họ gọi là “Những phần của Kinh thánh” được chọn để những nô lệ da đen ở quần đảo Tây Ấn thuộc Anh sử dụng, hay như cách chúng ta nói ngày nay là “Kinh thánh (dùng cho) nô lệ”. Các chủ nô đã khéo léo để lại những đoạn Kinh thánh mà khiến cho chế độ nô lệ trông có vẻ bình thường, chẳng hạn như phần Joseph bị giữ làm nô lệ ở Ai Cập.
Tuy nhiên, họ đã loại bỏ các phần khác, ví dụ như địa điểm mà người Israel chạy trốn khỏi những kẻ đàn áp họ ở Ai Cập, điều mà những chủ nô da trắng lo sợ có thể khuyến khích nô lệ nổi dậy. Trên thực tế, những người nô lệ ở Haiti đã nổi dậy chống lại các chủ nhân da trắng và đuổi họ ra khỏi Haiti 3 năm trước khi quyển Kinh thánh nô lệ đầu tiên được phổ biến.
- Xem thêm: Chợ nô lệ ở Libya
Người ta vẫn chưa biết ai đã tạo ra quyển Kinh thánh nô lệ. Một số giả thuyết cho rằng cuốn sách này có thể là tác phẩm thủ công của các chủ đồn điền da trắng, những người đã dùng nó để ngăn cản nô lệ của họ nổi loạn. Những người khác nghĩ rằng đó là từ những nhà truyền giáo da trắng muốn dạy cho những người nô lệ chỉ những chương ủng hộ chế độ nô lệ để họ có thể nghĩ rằng tình hình của họ là bình thường.
Những con chó hung dữ được nuôi dưỡng để săn những nô lệ bỏ trốn
Những nô lệ bỏ trốn thường khó truy tìm và nguy hiểm khi tiếp cận và bắt giữ. Các chủ đồn điền sau đó đã tìm ra một giải pháp: nuôi những con chó hung dữ chỉ để theo dõi, tấn công và bắt những nô lệ bỏ trốn.
“Negro dogs” là những giống chó mạnh mẽ và hung dữ như chó săn và chó bun có thể xé xác một người đàn ông ra thành từng mảnh. Trong thực tế, các chủ nô thường cho phép những con chó hung dữ đuổi bắt những nô lệ bỏ trốn. Tuy nhiên, họ cũng nhanh chóng trấn áp con chó trước khi nó giết chết nô lệ.
Một loại chó Negro khét tiếng là Dogo Cubano, còn gọi là chó ngao Cuba hay Mastin de Cuba. Con chó được nhân giống bằng cách lai giống từ một con quân khuyển Tây Ban Nha với chó mastiff Anh (giống chó lớn tai cụp) hoặc chó săn. Con vật được huấn luyện để bắt những nô lệ chạy trốn, mặc dù nó cũng bảo vệ gia súc và tham gia vào các cuộc đấu chó. Loại chó này đã tuyệt chủng sau khi chế độ nô lệ bị bãi bỏ ở Cuba.
Chó Negro được huấn luyện bằng những nô lệ thực sự. Chúng không nhìn thấy một nô lệ da đen cho đến khi được yêu cầu truy đuổi anh ta trong quá trình huấn luyện. Những con chó lần theo mùi của nô lệ sau khi được cho ngửi mùi riêng biệt từ một số quần áo. Sau đó, chúng lần theo mùi của những người này và tấn công họ một cách hung hãn. Những con chó thực hiện tốt bài huấn luyện sẽ được thưởng công bằng những miếng thịt.
Người chủ nô đầu tiên là một người da đen
Chúng ta được dạy rằng chế độ nô lệ bắt đầu ở Mỹ khi 20 nô lệ đầu tiên đến tiểu bang Virginia vào năm 1620. Điều đó chỉ đúng một phần vì những cá nhân này không thực sự là nô lệ. Họ là những người hầu có ký hợp đồng (khế ước), theo đó họ sẽ phải phục vụ một người chủ trong vài năm trước khi lấy lại tự do.
Nô lệ theo hợp đồng là tình trạng phổ biến vào thời điểm đó. Nhiều người, bao gồm cả người da trắng nghèo, thường bán một vài năm trong cuộc đời họ cho một ông chủ. Anthony và Mary Johnson là hai trong số những người hầu đầu tiên được nhận vào Mỹ vào những năm 1620. Sau đó, họ kết hôn và giữ những người hầu nô lệ của mình.
Một trong số những người hầu của họ tên là John Casor. Vào năm 1654 (hoặc năm 1655), hợp đồng giữa Casor và Anthony Johnson đã bị đưa ra xét xử tại một tòa án ở Virginia do sự bất đồng về thời gian làm nô lệ theo thỏa thuận của Casor. Casor cho rằng thỏa thuận của ông ta đã kết thúc bởi vì ông đã hoàn thành 7 năm đã thỏa thuận cộng thêm 7 năm nữa. Còn Anthony thì nhấn mạnh rằng Casor vẫn là người hầu của ông ta.
Tòa án xác định rằng Anthony có thể giữ Casor trong tình trạng phục vụ suốt đời; điều này thực sự khiến anh ta trở thành nô lệ. Các chủ sở hữu của những người hầu đã sớm tiếp cận các tòa án với yêu cầu tương tự và có thể chuyển đổi những người hầu đã ký thỏa thuận của họ trở thành nô lệ suốt đời. Năm 1661, vài năm sau phán quyết trong vụ án Casor và Anthony, Virginia chính thức hợp pháp hóa chế độ nô lệ.
Những người da trắng cũng bị giữ làm nô lệ
Khi đề cập về chế độ nô lệ, chúng ta thường nghĩ về nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Đó là những nô lệ được đưa từ châu Phi đến Mỹ trên những con tàu băng ngang qua Đại Tây Dương. Nhưng đó chỉ là một loại hình nô lệ. Các loại khác diễn ra ở những nơi khác và bao gồm cả nạn nhân là người da trắng.
Một loại hình nô lệ được điều hành bởi những tay cướp biển Barbary, những kẻ cướp nô lệ khét tiếng của đế chế Ottoman sống dọc theo bờ biển của các quốc gia Bắc Phi ngày nay, vào khoảng năm 1600.
Không giống như việc mua bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương, cướp biển Barbary không phân biệt nạn nhân của chúng. Chúng đột kích bất cứ ai, kể cả người theo Hồi giáo. Những người đàn ông bị bắt làm nô lệ, trong khi phụ nữ bị bán làm hầu thiếp. Những thiếu niên bị buộc phải chuyển sang đạo Hồi và cuối cùng bị cưỡng ép gia nhập quân đoàn nô lệ của quân đội Ottoman.
Cướp biển Barbary bắt đầu bằng cách bắt những hành khách đi trên tàu ở Địa Trung Hải. Sau đó, chúng chuyển sang đột kích các làng chài ven biển ở Anh, Pháp, Ý, Ireland, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Năm 1631, chúng bắt toàn bộ dân của Baltimore ở Ireland làm nô lệ. Các cuộc đột kích trở nên thường xuyên đến mức nhiều người dân sống ở các thị trấn ven biển châu Âu đã trốn vào sâu trong đất liền để trốn thoát khỏi những tên cướp biển.
Việc buôn bán nô lệ của Barbary đã bị chậm lại vào thế kỷ 17 khi hải quân châu Âu bắt đầu tấn công những tên cướp biển Barbary. Đến thế kỷ 19, Hải quân Hoa Kỳ và châu Âu đã tấn công cướp biển ngay trên lãnh địa của chúng. Điều này buộc chúng phải ngừng bắt các nô lệ là tín đồ Thiên Chúa giáo châu Âu, mặc dù bọn chúng vẫn tiếp tục đột kích các lãnh thổ khác.
Chủ nô nuôi nô lệ và dùng họ như một loại tiền tệ
Bản cáo trạng năm 1808 về việc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương được cho là một chiến thắng cho những người nô lệ da đen và phong trào chống chế độ nô lệ ở Mỹ. Tuy nhiên, trên thực tế, đó là một chiến thắng cho phong trào ủng hộ chế độ nô lệ. Trước khi có bản cáo trạng, nô lệ phụ thuộc vào các cá nhân bắt hoặc mua họ từ châu Phi. Sau lệnh cấm, họ chuyển sang làm nô lệ ở Mỹ.
“Nhân giống” nô lệ là hành động khuyến khích nô lệ sinh càng nhiều con càng tốt. Nhiều chủ nô duy trì các trang trại chăn nuôi, nơi họ giữ một vài nô lệ nam với nhiều nô lệ nữ. Con cái của các nô lệ cũng trở thành nô lệ khi sinh ra và ở lại các trang trại cho đến khi họ đủ tuổi để làm việc.
“Nhân giống” nô lệ trở thành trụ cột trong hoạt động kinh doanh của các bang như Virginia, nơi nhanh chóng trở thành nhà xuất khẩu nô lệ hàng đầu cho các thuộc địa khác. Nô lệ là sản phẩm chính của bang vào thời điểm đó. Họ nhanh chóng trở thành một loại tiền tệ và có giá trị hơn vàng. Năm 1860, tầng lớp nô lệ ở Mỹ được định giá tổng cộng là 4 tỷ đô la.
- Xem thêm: Những nô lệ của biển cả tại Bangladesh
Để so sánh, tất cả các loại tiền tệ ở Mỹ trị giá 435,4 triệu đô la vào thời điểm đó, trong khi tất cả vàng và bạc lưu hành được định giá là 228,3 triệu đô la. Một số chủ nô cũng đã thế chấp nô lệ của họ và sau đó thành lập các ngân hàng chuyển đổi các khoản thế chấp thành trái phiếu và được rao bán khắp thế giới, ngay cả ở những nơi mà chế độ nô lệ được coi là bất hợp pháp.
Trốn chạy khỏi một chủ nô được xem là bị rối loạn tâm thần
Samuel Cartwright là một bác sĩ y khoa ở miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ. Ông thậm chí còn sử dụng kiến thức về y học của mình để biện minh cho nó. Năm 1849, ông được bổ nhiệm phụ trách một ủy ban nhà nước Louisiana với nhiệm vụ ghi chép các căn bệnh của người Mỹ gốc Phi.
Cartwright đã gửi báo cáo của mình, với tiêu đề “Bệnh và các đặc điểm vật lý của chủng tộc da đen”. Ông tuyên bố rằng người da đen kém phát triển hơn người da trắng. Theo Cartwright, người da đen có bộ não nhỏ, hệ thống thần kinh chưa trưởng thành và làn da nhạy cảm, tất cả đều khiến họ trở thành những nô lệ tốt. Ông nói thêm rằng “một người da đen sẽ không bao giờ hạnh phúc trừ khi anh ta là nô lệ”.
Cartwright cho rằng những người nô lệ đôi khi bị ảnh hưởng bởi hội chứng drapetomania, một chứng rối loạn tâm thần khiến họ phải chạy trốn khỏi chủ nhân. Drapetomania được hình thành từ những từ Hy Lạp là “điên cuồng” và “nô lệ bỏ trốn”. Sự rối loạn này được cho là do các chủ nô đối xử với nô lệ của họ như con người.
Cartwright đã viết rằng những nô lệ có kế hoạch chạy trốn thường có “sự hờn dỗi và bất mãn mà không có lý do”. Tuy nhiên, những nô lệ chạy trốn bị bắt lại có thể được chữa trị bằng cách “đánh bật con quỷ bên trong ra khỏi con người họ” và cắt cụt những ngón chân của họ.
Lười biếng cũng được xem là một sự rối loạn thần kinh
Cartwright đã không dừng lại ở hội chứng drapetomania. Ông cũng tuyên bố sự tồn tại của một chứng rối loạn tâm thần “hư cấu” khác mà ông gọi là chứng dysaesthesia aethiopica, được cho là làm nô lệ lười biếng. Cartwright tuyên bố rằng chứng dysaesthesia aethiopica thường phát sinh khi da trở nên ít nhạy cảm hơn. Điều này được cho là làm cho những nô lệ da đen làm việc chậm chạp, như thể họ trong tình trạng “nữa thức, nữa ngủ”.
Cartwright tuyên bố rằng chứng dysaesthesia aethiopica ảnh hưởng đến người da đen tự do nhiều hơn những người nô lệ vì những người da đen tự do không có những người chủ để chăm sóc họ. Tuy nhiên, ông nói thêm rằng căn bệnh này có thể được chữa khỏi bằng cách rửa sạch da để giải mẫn cảm bằng xà phòng và nước. Sau đó, da được làm sạch trong dầu trước khi nô lệ đi làm việc dưới ánh mặt trời. Cartwright nói thêm rằng nô lệ sẽ cảm thấy rất dễ chịu.
Kết án oan thay thế chế độ nô lệ sau nội chiến
Chế độ nô lệ là hoàn toàn bất hợp pháp vào cuối cuộc nội chiến Hoa Kỳ. Điều này trở thành một vấn đề đối với miền Nam, và nhanh chóng trở nên bất ổn vì nền kinh tế của nó phụ thuộc vào chế độ nô lệ. Những người nô lệ trước đây đã tìm thấy sự an ủi trong tu chính án thứ 13, mà nội dung đề cập đến việc xóa bỏ chế độ nô lệ.
Các bang miền Nam bắt đầu bắt giữ người da đen một cách bừa bãi. Nhiều người thậm chí đã bị bắt vì một tội không thể tin được là “thất nghiệp”. Kẻ phạm tội bị trừng phạt với một khoản tiền phạt khổng lồ, mà người da đen không thể trả vì họ thất nghiệp. Vì vậy, họ bị cầm tù và làm thuê cho các doanh nghiệp tư nhân sử dụng lao động thủ công. Đây là hệ thống cho thuê những người bị kết án.
Hơn 200.000 người da đen trở thành nạn nhân của hệ thống cho thuê những người bị kết án. Điều kiện làm việc thật tồi tệ, giống như lúc họ còn là nô lệ. Những người bị kết án cho thuê phải làm những công việc nguy hiểm trong điều kiện vô nhân đạo. Họ cũng bị đánh, bị xích và bị đâm. Tình trạng người da đen bị kết án nhanh chóng trở nên “phổ biến” đến mức từ “người bị kết án” và “người da đen” được xem là từ đồng nghĩa vào thời điểm đó.
Những người da đen tự do bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ trở lại
Tổ chức “Underground Railroad” xuất hiện vài năm trước cuộc nội chiến ở Mỹ. Đó là một mạng lưới gồm các ngôi nhà và nơi ẩn náu được điều hành bởi những người da đen tự do và những người da trắng chống lại chế độ nô lệ, giúp những nô lệ chạy trốn khỏi miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ đến miền Bắc chống lại chế độ nô lệ.
“Underground Railroad” đã sớm bị đối nghịch bởi nhóm phản đối “Underground Railroad” hoạt động theo cách ngược lại. Những nô lệ bỏ trốn và những người da đen tự do bị bắt cóc ở miền Bắc và bị bán ở miền Nam dưới dạng nô lệ. Những người da đen tự do bị bắt cóc thường gặp khó khăn trong việc chứng minh rằng họ là người tự do vì các tòa án thường từ chối các giấy tờ của họ vì lo ngại giả mạo.
- Xem thêm: Kỳ thị màu da trong nghệ thuật
Những người da đen tự do khác không thể làm chứng rằng một người da đen là một người tự do vì luật pháp cấm người da đen làm chứng chống lại người da trắng tại tòa án. Chỉ có một người da trắng mới có thể chứng minh rằng một người da đen là một người tự do. Tuy nhiên, nhiều người da trắng sẽ không tham gia vì họ sẽ bị ghét bỏ vì giúp đỡ một người da đen và đưa một người đàn ông da trắng vào tù.
Người châu Phi bán người châu Phi làm nô lệ
Người châu Phi đã bán những người châu Phi khác làm nô lệ. Các tàu nô lệ đi đến châu Phi phải mua nô lệ của họ từ đâu đó. Hầu hết các tàu đi đến bờ biển châu Phi, nơi họ mua nô lệ từ các bộ lạc bản địa sống trong khu vực. Những người nô lệ thường là tù nhân chiến tranh bị bắt sau các cuộc đột kích vào các bộ lạc đối nghịch.
Các vị vua châu Phi đã trao đổi nô lệ để lấy vũ khí châu Âu ngay tại bờ biển, giúp họ tiến sâu hơn vào đất liền. Ở đó, họ chiếm được các lãnh thổ và nô lệ mới và họ cũng dùng để đổi lấy vũ khí. Chu kỳ chết chóc cứ thế tiếp tục. Việc buôn bán nô lệ là lý do khiến nhiều bộ lạc Tây Phi tham gia vào một loạt các cuộc chiến tranh chết chóc cách đây vài thế kỷ.
Khi châu Phi giao thương với người châu Âu bắt đầu vào thế kỷ 16, nó hoàn toàn không liên quan gì đến nô lệ. Lúc đầu, giới cầm quyền châu Phi chỉ giao dịch ngà voi và vàng để đổi lấy hàng hóa châu Âu. Tuy nhiên, họ sớm bắt đầu giao dịch nô lệ.