Bắt đầu từ hệ thống ngân hàng
Lạm phát trong năm 2012 dù là 9% hay 10% chẳng có gì đáng lo ngại, nhưng lạm phát trong tình hình kinh tế suy thoái mới là chuyện đáng quan tâm. Lạm phát suy thoái sẽ khiến cho các chính sách tiền tệ – tài chính trở nên lưỡng nan. Suy thoái đòi hỏi một chính sách tiền tệ mở rộng để kích thích kinh tế, nhưng đối với nhiều nhà phân tích kinh tế, một chính sách tiền tệ mở rộng lại có thể làm gia tăng cơn sốt lạm phát. Trong tình hình đó, các nhà lãnh đạo kinh tế vĩ mô buộc phải chọn lựa mục tiêu ưu tiên giữa phục hồi sản xuất kinh doanh, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp và một tình trạng ổn định trì trệ. Đó không phải là một quyết định quá khó khăn, điều khó khăn chính là dám làm điều cần làm vì lợi ích thực sự của nền kinh tế. Các con số thống kê đã cho thấy những dấu hiệu của suy thoái đang phủ một bóng mây mù lên nền kinh tế chúng ta năm nay khi tăng trưởng giảm sụt ở hầu hết các khu vực kinh tế dẫn đến tình trạng doanh nghiệp đóng cửa, lao động mất công ăn việc làm, giá nhà đất đóng băng, thị trường chứng khoán giảm điểm, nợ xấu ngân hàng tăng mạnh và điều này có khả năng sẽ kéo dài đến tận 2013, nếu chúng ta không chọn được giải pháp đúng. Nhiều người đã đề cập đến vấn đề sàng lọc, loại bỏ những con sâu làm rầu nồi canh, để có được một lực lượng doanh nghiệp lành mạnh hơn, một hệ thống ngân hàng hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn và được tín nhiệm hơn. Nhưng ai sẽ là những con sâu được gắp ra khỏi nồi canh và một sự sàng lọc liệu có nguy cơ đưa đến đổ vỡ dây chuyền làm hao tổn nguyên khí kinh tế của quốc gia? Mặt khác, liệu nền kinh tế Việt Nam có thể tự hồi phục khi nền kinh tế thế giới còn chưa rút chân khỏi vũng lầy suy thoái?
Dù thế nào đi nữa, một viễn cảnh phục hồi phải bắt đầu từ hệ thống ngân hàng. Một kịch bản lạc quan cho thấy Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục duy trì sự hỗ trợ cần thiết về thanh khoản cho các ngân hàng thương mại đồng thời tiếp tục thực hiện kế hoạch tái cấu trúc hệ thống ngân hàng qua các hình thức sáp nhập, hợp nhất phù hợp, thay cho tình trạng thâu tóm thù nghịch. Trước tình hình thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, các ngân hàng thương mại sẽ nhận thấy rằng lợi ích thực sự của họ không nằm ở chỗ chuyển các khoản nợ vay sang quá hạn, điều này chỉ đưa các doanh nghiệp hoạt động chính đáng trong ngành này đến bờ vực phá sản, mà cần thiết phải giúp họ tồn tại bằng cách cơ cấu lại các khoản vay, gia hạn nợ và không chuyển nợ quá hạn. Biện pháp này cũng cần được áp dụng cho những doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng trong các lĩnh vực khác đang gặp khó khăn nhất thời. Trong thời kỳ kinh tế khó khăn, chính sự hợp tác quý giá này sẽ giúp ngân hàng và doanh nghiệp cùng nhau vượt qua khủng hoảng. Còn đối với các tập đoàn nhà nước, song song với việc cấu trúc lại nợ, họ sẽ được Chính phủ yêu cầu nhanh chóng thu hẹp hoạt động, tập trung các nguồn lực đang có vào chức năng hoạt động chủ yếu, thực hiện hiệu quả kế hoạch giảm vốn, giảm nợ bằng cách bán bớt tài sản và đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa. Có thể chúng ta sẽ chứng kiến một định chế quốc gia mua bán tài sản không vì lợi nhuận được xây dựng dựa trên sự hỗ trợ phối hợp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước, hoạt động với một phương thức tốt hơn và công bằng hơn, ít sử dụng nguồn tiền của ngân sách quốc gia mà vẫn có thể tạo nguồn thanh khoản cần thiết cho hệ thống ngân hàng. Khi băng tan từ các ngân hàng, các doanh nghiệp của chúng ta có điều kiện được tiếp vốn, tín dụng có hiệu quả sẽ gia tăng, sản xuất kinh doanh dần dần phục hồi.
***
Nếu những dự báo nêu trên xảy ra sớm trong năm 2012, chúng ta có thể chứng kiến một năm 2013 tốt hơn. Nhưng cần thấy rằng để có thể mang đến những thành tựu kinh tế mong muốn, các giải pháp chọn lựa nhất thiết phải phù hợp với nguyên tắc chung. Luôn luôn có tiêu chí rõ ràng về tính chất phù hợp của mọi giải pháp kinh tế, dù là vĩ mô hay vi mô. Tiêu chí đó là tính chất hiệu quả và tiết kiệm của việc sung dụng các nguồn lực của đất nước. Các nguồn tài nguyên quốc gia (con người, đồng vốn, tài nguyên thiên nhiên, kỹ năng, công nghệ,…) cần phải được phân phối hợp lý cho những khu vực kinh tế, những ngành nghề, những con người biết sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và mang lại kết quả tốt hơn hết cho họ và cho nền kinh tế quốc dân. Điều đó sẽ tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia, giúp cho đất nước nhanh chóng vượt qua các thời kỳ khó khăn và là nền tảng cho một tương lai kinh tế cường thịnh.
Huỳnh Bửu Sơn