Huỳnh Phương Đông là họa sĩ kháng chiến hai thời kỳ. Vẫn vẽ tranh sơn dầu, tranh lụa, cổ động, đúc tượng, nhưng nghệ sĩ nổi tiếng với số lượng khổng lồ 20 nghìn bức ký họa kháng chiến nhờ suốt cả đời họa sĩ không rời cây cọ và cây súng bên mình.
Vừa chiến đấu vừa sáng tác, họa sĩ sở hữu một sự nghiệp hội họa với nhiều tác phẩm nghệ thuật đa dạng về thể loại và có cũng biệt tài về ký họa chân dung. Họa sĩ Huỳnh Phương Đông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007) với 3 họa phẩm nổi tiếng: Trận Ấp Bắc, Trận Bình Giả, Trận La Ngà, ngoài 2 Huân chương Kháng chiến, 5 Huy chương về Hoạt động Mỹ thuật và 3 Giải thưởng cao quý trong các lần Triển lãm Hội họa.
Đất Sóc Trăng hiền hòa nơi miền duyên hải Tây Nam bộ, không chỉ được biết đến với gạo trắng thơm ngon và Chùa Dơi u huyền trầm mặc mà còn in đậm dấu ấn hoạt động của nhiều văn nghệ sĩ: nhà văn – liệt sĩ Lê Vĩnh Hòa (1932-1957), nghệ sĩ Thành Được, nhạc sĩ Quách Tín,… Về mỹ thuật, có nhà danh họa Nguyễn Trung (sinh 1940), họa sĩ cách mạng Huỳnh Phương Đông… Trong đó, họa sĩ Huỳnh Phương Đông được coi là một nghệ sĩ hội hoạ nổi tiếng.
Họa sĩ Huỳnh Phương Đông (1925-2015), tên thật là Huỳnh Công Nhãn, gốc người Sóc Trăng nhưng được sinh ra tại Sài Gòn. Thời gian còn học mỹ thuật ở nhà trường phổ thông và trường mỹ thuật, Huỳnh Phương Đông đã sớm bộc lộ năng khiếu hội họa với những bài tập mỹ thuật đều được thầy cô lưu ý ngợi khen và đánh giá cao.
Sau khi tốt nghiệp Trường Mỹ thuật thực hành Gia Định (1945), với tinh thần yêu nước, Huỳnh Phương Đông tham gia cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân khi quân Pháp trở lại toan xâm chiếm miền Nam. Khi cuộc Tổng khởi nghĩa ở Nam bộ nổ ra (1945), Huỳnh Phương Đông trở về Sóc Trăng. Vừa tham gia công tác cách mạng và tiếp tục hoạt động mỹ thuật.
Tác phẩm đầu tiên ông vẽ là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một năm sau, họa sĩ trở lại Sài Gòn cùng 3 học sinh của trường vẽ Gia Định để hoạt động bí mật: vẽ biểu ngữ, viết truyền đơn cổ động phong trào đấu tranh của nhân dân. Năm 1947, do hoàn cảnh chính trị, 4 anh em cùng vào khu ăn cứ Việt Minh ở Rừng Sác tham gia kháng chiến.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy với Hiệp định Genève được ký kết (1954), Huỳnh Phương Đông tập kết ra Bắc tiếp tục học Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Hà Nội (1957-1963), chuyên ngành Điêu khắc. Nhiều tác phẩm của Huỳnh Phương Đông sau đó được gởi đi tham dự các cuộc triển lãm trong và ngoài nước: Đông Âu, Cuba, Trung Quốc,… nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn.
Năm 1963, nặng tình với quê hương nhau rún, Huỳnh Phương Đông tình nguyện trở về Nam, để lại vợ là bác sĩ Lê Thị Thu và 2 con: Huỳnh Phương Đông (họa sĩ lấy tên con trai làm bút danh) và Huỳnh Phương Mai ở lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa – con gái út của họa sĩ là Huỳnh Phương Lan sau này sinh tại chiến khu (1974) ở miền Nam. Ở tư cách một họa sĩ – chiến sĩ, tính cách và cuộc đời Huỳnh Phương Đông được khắc họa đậm nét nhất.
Hoạ sĩ nhận công tác Trưởng phòng Hội họa Giải phóng, ủy viên phụ trách Tiểu ban Văn nghệ của Trung ương Cục miền Nam. Sau đó, họa sĩ là Đại úy phòng Tuyên huấn Cục Chính trị quân Giải phóng miền Nam (1969-1976), rồi là cán bộ phòng Mỹ thuật Giải phóng. Họa sĩ Huỳnh Phương Đông cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng khác như: Phó Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Bộ Văn hóa Thông tin rồi Ủy viên Ban Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam (khóa I, II).
Trong công tác, họa sĩ vừa giảng dạy cho họa sĩ trẻ để chuẩn bị thế hệ kế thừa, vừa cùng đồng đồng đội hăng hái tham gia những trận đánh và chống càn quyết liệt. Dấu chân của người nghệ sĩ yêu nước đã in khắp mặt trận nóng bỏng lúc bấy giờ: trận càn Junction City dữ dội tại căn cứ B2, Huỳnh Phương Đông cùng tiểu đoàn 14 Tây Ninh chiến đấu dũng cảm tại núi Bà Đen, Gò Dầu, Long An đến trận đánh giải phóng Lộc Ninh, Phước Long rồi tiếp tục tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Vừa chiến đấu vừa sáng tác rồi triển lãm ngay tại chiến hào. Tranh sáng tác của Huỳnh Phương Đông mang hơi thở nồng ấm của người chiến sĩ yêu nước tại chiến trường máu lửa và phừng phực cháy bỏng tính thời sự ở phòng tranh mặt trận như cổ vũ bộ đội trước khi ra trận.
Ký họa chiến trường là khối tác phẩm đồ sộ có một không hai của người họa sĩ-chiến sĩ. Đây là những sáng tác ghi lại nóng hổi những khoảnh khắc chiến đấu anh dũng của đồng bào chiến sĩ miền Nam với phong cách nghệ thuật phóng khoáng mà đường nét khỏe khoắn mạnh mẽ dễ làm xúc động lòng người thưởng ngoạn.
Đứng trước những tấm tranh ký họa chiến sự của họa sĩ Huỳnh Phương Đông, người xem không nghĩ đó là tranh ký họa vì ở tác phẩm họa sĩ đã sử dụng phong phú đường nét một cách chi li khá tinh tế cộng với sự đa dạng rực rỡ ở cách phối màu khác hẵn với tranh ký họa bình thường hạn chế về cách bố cục đường nét, màu sắc như ta thường thấy ở tranh thủy mặc.
Có thể ví dụ ở những hoạ phẩm: Trận Bình Giả (1965), Trận La Ngà (1948), cả hai bức tranh đều được Giải thưởng Nhà nước (2007) hoặc tác phẩm: Vượt cầu dây Đại Lộc, Quảng Nam (1963), Trận đánh phía Nam cầu Chữ Y (1968), Lộc Ninh giải phóng (1973)…
Xem tranh của họa sĩ Huỳnh Phương Đông, đa phần khán giả nhận định là tác phẩm của nghệ sĩ chan hòa chất thơ, rạng rỡ tính lạc quan mà thể hiện đúng nghĩa tính anh hùng ca, và đậm màu sử thi, thích hợp với bản chất của người Nam bộ.
Ông David Thomas, họa sĩ Mỹ, tác giả cuốn sách Huỳnh Phương Đông – góc nhìn chiến tranh và hòa bình (Huynh Phuong Dong – Visions of War and Peace) đã có lần tâm sự khi trở lại Việt Nam: “Tôi đã thật sự say mê những bức tranh của ông. Những bức ký họa chiến tranh của ông mang ‘sức nóng’ của một người trong cuộc và được ‘khúc xạ’ dưới con mắt lãng mạn của một nghệ sĩ tài ba… Dù không nói ra, tôi vẫn coi ông như cha của mình từ lâu. Ông là đại diện của nền hội họa Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. Ông Đông là kho báu của Việt Nam”.
Cũng nói về nghệ sĩ hội họa Huỳnh Phương Đông, họa sĩ Vũ Giáng Hương, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam nhận định: “Huỳnh Phương Đông có bút pháp phóng khoáng, tranh của ông mang màu sắc trong sáng; trong cảnh tàn phá vẫn có những mảng trời xanh thân yêu của đất nước – màu của niềm tin và hy vọng. Tình cảm với quê hương, lòng quyết tâm chiến đấu, khả năng diễn đạt của ông đã tạo nên những tác phẩm hội họa có giá trị nghệ thuật”.