Những đóng góp của phụ nữ cho khoa học dĩ nhiên là không được cường điệu hóa, ngay cả khi cá nhân đó nhận được sự tin cậy mà họ đáng có trong lịch sử. Trước đây, nhận thức chung về phụ nữ liên quan nhiều hơn đến vai trò của họ là người mẹ và người nội trợ hơn là nhà khoa học.
Nhưng đó là một nhận thức không chính xác và không công bằng. Mặc dù các nhà khoa học nữ thường bị từ chối công nhận thành tựu của họ; họ vẫn là người có những đóng góp cho nhiều khám phá và tiến bộ đột phá trong khoa học.
1. Cấu trúc ADN
Vâng, điều này là chính xác. Cấu trúc ADN được phát hiện bởi một người phụ nữ.
3 người đàn ông đã giành được giải Nobel Y học năm 1962 vì đã mang đến cái mà ngày nay chúng ta gọi là chuỗi xoắn kép, mô hình phân tử của ADN. Nhưng phát hiện này thực sự được thực hiện bởi một người phụ nữ tên Rosalind Franklin, người làm việc cùng với những người giành giải Nobel.
Cô bị lấn át bởi các đồng nghiệp của mình khi họ nhận giải thưởng. Tuy nhiên, cô đã có những đóng góp đáng kinh ngạc cho khám phá này mặc dù đã bị bỏ rơi khỏi ánh đèn sân khấu.
Cô chính là người chụp ảnh ADN ở cự ly gần. Trông nó giống như một chữ “X” trên phim khi được phóng to. Bức ảnh này sau đó được gọi là “bức ảnh 51” và một vở kịch nói về Rosalind Franklin được dàn dựng với cùng tiêu đề.
Điều này đã thúc đẩy sự hiểu biết về bản thân và các hoạt động bên trong cơ thể chúng ta. Nó đã giúp vật lý, sinh học và hóa học tiến bộ theo cấp số nhân kể từ thời gian đó.
2. Lõi quả đất
Trái đất được tạo thành bởi nhiều lớp. Mặc dù có nhiều cách khác nhau để phân loại các lớp này, ta tạm thời chia chúng thành lớp vỏ, lớp phủ, lõi ngoài và lõi bên trong, được phát hiện bởi nhà địa chấn học người Đan Mạch Inge Lehmann vào năm 1936.
Lõi ngoài là một khối nóng chảy, trong khi lõi bên trong trái đất là một khối rắn. Việc phát hiện ra lõi bên trong đã giúp chúng ta xác định tuổi trái đất cũng như nhiều thứ khác.
- Xem thêm: Trong nửa kỳ quái của trái đất
Bằng cách đo tốc độ làm mát của lõi bên trong trái đất, các nhà khoa học đã phát hiện lõi bên trong có khả năng đã bắt đầu hóa rắn vào khoảng 0,5 tỷ cho đến 2 tỷ năm trước. Tuy nhiên, sự phát triển của lõi bên trong trái đất được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra từ trường trái đất.
3. Cấu trúc dải Ngân hà
Giáo sư vật lý Heidi Jo Newberg tại Học viện Bách khoa Rensselaer nổi tiếng với những đóng góp của bà về cấu trúc của dải ngân hà. Dải ngân hà là một thiên hà xoắn ốc có rào chắn chứa hệ mặt trời của chúng ta. Nó kéo dài ít nhất 100.000 năm ánh sáng.
Newberg và nhóm của bà đã phát hiện ra rằng dải Ngân hà ăn thịt các ngôi sao từ các thiên hà nhỏ hơn. Ngoài ra, họ đã xác định được rằng dải Ngân hà lớn hơn so với trước đây và có nhiều gợn sóng hơn.
Vào năm 2002, theo nghiên cứu của Newberg, người ta đã phát hiện ra rằng đĩa của dải Ngân hà có những gợn sóng. Điều này dẫn đến một ước tính sửa đổi về chiều rộng của thiên hà từ 100.000 năm ánh sáng đến khoảng 150.000 năm ánh sáng. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn đang tranh luận về phép đo này.
4. Hiện tượng phân hạch hạt nhân
Như đã xảy ra thường xuyên với người phụ nữ tên Lise Meitner, một trong hai người phát hiện ra sự phân hạch hạt nhân, cô đã bị lờ đi vào năm 1945 khi giải thưởng Nobel Hóa học được trao cho đối tác của mình là Otto Hahn. Anh ta đã chấp nhận nó cho riêng mình về công việc mà hai người đã làm cùng nhau.
Đây không phải là lần đầu tiên trong đời Meitner xảy ra chuyện này. Cô là người đã phát hiện ra quá trình chuyển đổi không phóng xạ vào năm 1923. Tuy nhiên, khám phá của cô đã bị bỏ qua và được ghi nhận cho Pierre Victor Auger, một người đàn ông đã tìm thấy điều tương tự 2 năm sau đó. Trên thực tế, hiện tượng này được đặt tên là “hiệu ứng Aug Auger” theo tên anh ta.
Meitner đã đưa ra thuật ngữ về “sự phân rã hạt nhân” vào đầu năm 1939 và giải thích quy trình này trong một bài báo mà cô đã xuất bản với sự trợ giúp của cháu trai, Otto Frisch. Phản ứng phân hạch hạt nhân là một quá trình mà sau này trở thành công cụ tạo ra bom nguyên tử.
5. Động năng (Kinetic Energy)
Gabrielle-Emilie Le Tonnelier de Breteuil, còn gọi là nữ hầu tước Du Chatelet, là một triết gia, nhà toán học và nhà vật lý học sống vào thế kỷ 18. Bà là người đầu tiên mô tả động năng cũng như là người đầu tiên dịch sang tiếng Pháp tác phẩm nổi tiếng Nguyên lý toán học của triết học tự nhiên của Isaac Newton. Nó vẫn là bản dịch chuẩn cho đến ngày nay.
Động năng là năng lượng được sở hữu bởi một hạt hoặc một vật thể do chuyển động của nó. Trước đó, Newton, Voltaire và những người khác đã cho rằng động năng tỷ lệ thuận với vận tốc chuyển động của vật thể. Du Chatelet đã chỉnh sửa công thức của họ. Đối với một vật, bà nói thêm rằng động năng cũng phụ thuộc vào khối lượng của đối tượng.
Nhìn chung, Du Chatelet đã phát hành 4 công trình khoa học và năm công trình khác, củng cố vị trí của mình trong lịch sử trong các lĩnh vực toán học và vật lý.
6. Chất phóng xạ Uranium
Marie Curie, một nhà khoa học sinh ở Ba Lan, đã khám phá phần lớn những gì ngày nay chúng ta biết về phóng xạ. Bà đã nghiên cứu bức xạ chuyên sâu bao gồm uranium và thorium, tìm thấy cả hai đều là vật liệu phóng xạ. Bà cũng đã nghĩ ra cách để đo tổng lượng phóng xạ.
Tuy nhiên, tuyên bố chủ yếu làm cho bà nổi tiếng là sự khẳng định táo bạo (vào thời điểm đó) rằng phóng xạ không phụ thuộc vào một dạng nguyên tố mà là cấu trúc nguyên tử của nó. Bà là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “năng lực phóng xạ” (radioactivity) và đã phát minh ra một lĩnh vực nghiên cứu khoa học mới gọi là vật lý nguyên tử.
Marie Curie đã giành giải thưởng Nobel hai lần về Vật lý vào năm 1903 và Hóa học năm 1911.
7. Ẩn tinh (Pulsar)
Hôm đó là ngày 28 tháng 11 năm 1967. 2 nhà thiên văn học, Jocelyn Bell Burnell và Anthony Hewish, đã có một khám phá đáng kinh ngạc: đó là một sao neutron quay nhanh, bắn ra một chùm bức xạ điện từ về phía trái đất.
Cơ hội thực sự là rất nhỏ khi họ ngẫu nhiên bắt gặp một chùm tia từ một ẩn tinh nhắm trực tiếp vào trái đất. Họ chỉ tình cờ nhìn lên bầu trời vào một buổi tối trời trong thì phát hiện ra nó.
Burnell và Hewish gọi đùa các xung điện từ là “Little Green Men” (người đàn ông nhỏ màu xanh) và nói vui rằng người ngoài hành tinh có thể đang cố gắng liên lạc với họ thông qua một chùm tia. Nhưng thực ra, đó là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên ở một số ngôi sao.
Các xung bức xạ riêng biệt phát ra từ các ẩn tinh xuất hiện đều đặn. Bản chất xung nhịp của tia là do sao quay và ánh sáng liên tục chiếu vào đường ngắm của quan sát viên.
8. Top Quark
Trong vật lý học, các top quark là thành phần nặng nhất trong tất cả các hạt cơ bản. Điều này đã được xác nhận bởi máy Large Hadron Collider vào năm 2014. Quark là những hạt cơ bản tạo nên neutron và proton, là 2 trong 3 thành phần của nguyên tử. Thành phần thứ ba là một điện tử, còn được gọi là hạt cơ bản, vì nó không thể bị phá vỡ thêm nữa. Nguyên tử là khối xây dựng của vật chất trong vũ trụ của chúng ta.
Sáu loại quark là lên (up), xuống (dowm), lạ (strange), quyến rũ (charm), dưới cùng (bottom) và hàng đầu (top). Top quark đã được phát hiện bởi Melissa Franklin và đội của cô tại Fermilab. Đây không phải là lần duy nhất mà Franklin thực hiện một khám phá lớn trong thế giới vật lý hạt. Cô cũng là một phần của nhóm nghiên cứu tại CERN đã phát hiện ra boson Higgs được dự đoán từ trước đó.
9. Ánh sáng chậm
Bạn có biết rằng ánh sáng có thể đi chậm lại trong một số trường hợp không? Nó chắc chắn là có thể. Và chúng ta biết điều này là nhờ nhà vật lý người Đan Mạch Lene Vestergaard Hau, người đã phát hiện ra việc ánh sáng có thể đi chậm lại. Trong chân không, ánh sáng di chuyển với vận tốc 299.792 km/giây. Tuy nhiên, khi ánh sáng đi qua vật chất, nó chậm lại.
Bằng cách bơm ánh sáng vào một chất ngưng tụ gọi là Bose-Einstein (một trạng thái vật chất), Hau và nhóm Đại học Harvard của cô đã có thể làm giảm tốc độ ánh sáng xuống chỉ còn 27 km mỗi giờ. Thậm chí còn kinh ngạc hơn, nhóm của cô đã dừng được ánh sáng trong một ngưng tụ Bose-Einstein. Hau sẽ đi vào lịch sử với tư cách là người đầu tiên thực sự dừng được ánh sáng.
10. Virus HIV
Virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người (HIV) đã lây nhiễm hơn 70 triệu người và giết chết hơn 35 triệu kể từ khi được phát hiện vào những năm 1980. Đây giống như là một phiên bản hiện đại của bệnh dịch hạch từng hoành hoành ở châu Âu từ thế kỷ 14.
Năm 2008, nhà virus học người Pháp Francoir Barre-Sinoussi đã chia sẻ giải thưởng Nobel Y học với Luc Montagnier và Harald zur Hausen. Một nửa giải thưởng đã thuộc về Barre-Sinoussi và Montagnier vì công trình phát hiện ra HIV (Zur Hausen đã nhận được nửa còn lại của giải thưởng vì phát hiện ra virus u nhú ở người gây ung thư cổ tử cung.)
- Xem thêm: Thầy trò Đường Tăng…
Nhóm Barre-Sinoussi, đã cố gắng tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh AID. Nghi ngờ rằng đó có thể là một retrovirus (nhóm virus RNA chèn bản sao ADN bộ gien của chúng vào tế bào chủ để sao chép), họ đã tìm thấy nó khi nghiên cứu hạch bạch huyết của một người mắc bệnh AIDS. Điều đáng sợ là Barre-Sinoussi tin rằng việc chữa khỏi HIV là không thể.