Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta lại không thể thấy trước nguy cơ đổ vỡ hàng loạt các doanh nghiệp và ngăn ngừa nó xảy ra? Ông Ngô Trí Long, nguyên phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học giá cả thuộc Bộ Tài chính nhận xét rằng “các doanh nghiệp thực chất đã gặp khó khăn từ năm 2011, số giải thể tại thời điểm đó đã lên tới 80.000, do đó, chương trình hỗ trợ lẽ ra đã phải được triển khai sớm hơn”. Chắc chắn là cứu sớm sẽ tốt hơn cứu trễ, nhưng điều tốt hơn là tạo môi trường tiền tệ và tài khóa tốt hơn nữa để không còn xảy ra tình trạng phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, một tình trạng sẽ làm hao tổn rất lớn nguyên khí của nền kinh tế quốc dân. Đã có điều gì chưa ổn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp kinh tế vĩ mô, trong đó có chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ?
Điều đáng chú ý là trong cả hai trường hợp mà Chính phủ phải áp dụng các gói cứu trợ, nền kinh tế nước ta dường như đột ngột rơi từ trạng thái lạm phát sang trạng thái suy thoái chỉ trong một thời gian ngắn. Trước đó, nền kinh tế được chẩn đoán là đang chịu một áp lực lạm phát nặng nề, nguyên nhân được cho là do cả chi phí đẩy (cost push) lẫn tổng cầu tăng (demand pull), một hiện tượng tăng trưởng do đầu tư tăng. Do đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã không ngần ngại áp dụng những biện pháp chống lạm phát một cách quyết liệt bằng việc nâng cao mức lãi suất ngân hàng, hạn chế tín dụng và nâng thuế suất. Lãi suất cao, tín dụng ngân hàng siết chặt giờ đây lại trở thành nguyên nhân dẫn đến sự phá sản hàng loạt doanh nghiệp và Nhà nước lại phải tung ra những gói cứu trợ tài chính khẩn cấp. Chúng ta chẳng khác nào những bà mẹ thương con, khi thấy con sốt thì tìm cách chườm nước đá thật nhiều để hạ nhiệt, còn khi thấy đứa bé trở nên lạnh lẽo thì vội vàng ngâm nước nóng cho nó. Ông Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã nhận xét rằng các chính sách kinh tế của chúng ta “có phần bị động và giật cục”, việc triển khai các giải pháp thường chậm trễ so với yêu cầu của tình hình. Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng cũng đề xuất rằng các chính sách kinh tế vĩ mô cần phải ổn định lâu dài, như vậy cộng đồng doanh nghiệp mới có thể an tâm xây dựng và thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, củng cố năng lực cạnh tranh của mình trong nước và trên thị trường quốc tế.
Bài học vừa qua cho thấy công tác dự báo kinh tế và sự chẩn đoán chính xác căn nguyên của những căn bệnh kinh tế như lạm phát và suy thoái rất cần thiết cho việc xây dựng và triển khai các biện pháp kinh tế vĩ mô phù hợp. Các chính sách tiền tệ và tài khóa cần có một sự phối hợp chặt chẽ, đảm bảo tính ổn định lâu dài, hướng đến các mục tiêu thiết thực như thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, sung dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đất nước và duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý cho nền kinh tế.
Hiện nay cái mà doanh nghiệp cần hơn là nguồn vốn tín dụng với mức lãi suất hợp lý mà họ có thể chịu đựng được. Tuy nhiên, điều nghịch lý là hiện nay có thông tin cho rằng nhiều ngân hàng lớn đang thừa vốn nhưng không thể cho vay được vì nhiều doanh nghiệp không đạt chuẩn để được vay. Cơ chế bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn ngân hàng chưa hoạt động tốt. Như vậy, chương trình hỗ trợ tín dụng cho bốn lĩnh vực sản xuất kinh doanh ưu tiên mà Ngân hàng Nhà nước đề ra sẽ còn lắm gian nan mới có thể đạt được mục tiêu kỳ vọng.
Huỳnh Bửu Sơn