Ngoài mối liên kết với chương trình F1 in Schools, học viện này còn liên kết với những doanh nghiệp lớn như Công ty Điện lực Quốc gia Vương quốc Anh (lĩnh vực bảo trì kỹ thuật), E-ON Công ty Năng lượng tư nhân lớn nhất thế giới (lĩnh vực năng lượng tương lai), Jaguar Land Rover (lĩnh vực kiểm soát bằng máy tính), Công ty Dịch vụ hạ tầng Amey (lĩnh vực điện tử), Công ty Bánh kẹo Cadbury lớn thứ hai thế giới (tự động hóa và chế tạo), Aston Martin Racing – đội đua ôtô mang thương hiệu ôtô nổi tiếng Aston Martin (lĩnh vực thiết kế trên máy tính).
Các em học sinh khi vào học viện được ghi danh vào một tổ chức nghề nghiệp ở lứa tuổi 16 và khi tốt nghiệp ở độ tuổi 19, tất cả các em sẽ được công nhận là những chuyên viên kỹ thuật công nghệ, có thể gia nhập thị trường lao động.
Câu chuyện này cho thấy ranh giới đã trở nên rất mờ nhạt về lứa tuổi, về các cấp đào tạo (đại học và các cấp thấp hơn). Dễ thấy dù là đại học hay học viện kỹ thuật dành cho các em học sinh 14-19 tuổi thì mục tiêu cuối cùng vẫn là trang bị cho các em kỹ năng và kiến thức cần thiết để có thể tự lập, tìm kiếm cơ hội và hòa nhập vào môi trường công việc sau khi ra trường, đó chính là mục tiêu của giáo dục đại học.
Mang câu chuyện về một học viện được đầu tư hơn 15 triệu bảng Anh đặt trong bối cảnh Việt Nam là có phần khập khiễng. Tuy vậy, có thể thấy rõ rằng sự linh hoạt về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động là một thách thức to lớn với giáo dục đại học Việt Nam, như trăn trở của bà Tôn Nữ Thị Ninh, một nhà ngoại giao nổi tiếng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Xã hội và Giáo dục. Bà nói: “Con đường học tập đâu có phải thẳng tắp; ở các nước thì khả năng liên thông từ cấp này lên cấp khác, thậm chí cho phép chuyển đổi lĩnh vực học tập trong nhà trường là rất phổ biến. Còn cách tổ chức học tập của mình có quá nhiều bức tường giữa các khoa, các bộ môn, giữa các trường, các cấp. Có những người đi làm rồi mới quay lại học, hoặc bắt đầu học lại muốn đi làm, muốn bảo lưu để rồi đi làm một hai năm quay lại học. Nhưng không phải trường nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện như vậy”.
Lệch pha giữa doanh nghiệp và nhà trường ở nước ta
Trở lại với câu chuyện của Việt Nam. Những hình ảnh dưới đây được dùng để nói về những hoạt động không phải là hiếm gặp trong một ngày làm việc của sinh viên thực tập tại Việt Nam. Đây không phải là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả các doanh nghiệp vì các doanh nghiệp nước ngoài và nhiều doanh nghiệp năng động trong nước đã và đang có những chương trình thực tập nghiêm túc dành cho sinh viên. Tuy nhiên, những hình ảnh này hay câu chuyện về nạn hình thức trong thực tập của sinh viên đã được đề cập đến bởi các doanh nghiệp, các nhà giáo dục tham dự cuộc Đối thoại Giáo dục Toàn cầu. Và vấn đề họ đặt ra là làm thế nào để xây dựng một mối quan hệ bền vững và thực chất giữa nhà trường và doanh nghiệp tại Việt Nam.
Mười hai năm trước đây, công ty toàn cầu về dịch vụ phần mềm Harvey Nash đã đến với Việt Nam như một sự tình cờ. Khi đó điểm đến quen thuộc của họ là Ấn Độ, nhưng chi phí trả lương cho nhân công bản địa ngày một cao và tình trạng nhảy việc phổ biến đã khiến Harvey Nash lựa chọn Việt Nam. Trong sự lựa chọn này, khó khăn với Harvey Nash khi đó chính là vấn đề nhân lực. Các nhân viên Việt Nam vừa thiếu về số lượng lại ít có kinh nghiệm làm việc với khách hàng quốc tế, chưa nắm rõ về quy trình làm việc chuyên nghiệp, rụt rè trong giao tiếp…