Đặc khu kinh tế Việt Nam, một từ vừa quen thuộc trong 20 năm qua nhưng cũng vừa rất xa lạ vì lúc xuất hiện từ này rộ lên một thời gian rồi lại âm thầm biến mất…
Gần đây “đặc khu kinh tế” dường như lại xuất hiện trở lại với ba địa danh kèm theo là Văn Đồn (Quảng Ninh). Bắc Văn Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang). Thế nhưng giải thích lý do tại sao ba địa phương trên được chọn làm đặc khu kinh tế Việt Nam, thì quả thật lại càng xa lạ hơn!
Đất nước trong suốt 30 năm đổi mới, chúng ta thường nghe nói đến khu chế xuất, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu dân cư mới, khu đô thị mới, khu kinh tế biển, khu kinh tế tự do và gần đây là đặc khu kinh tế v.v… Có khu tên gọi gắn với công năng cụ thể như khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu dân cư mới, khu đô thị mới. Nhưng cũng có những tên gọi nhưng chưa thấy được hình hài, nên cũng không biết nó sẽ là gì.
Tuy nhiên, tất cả tên gọi đó cũng nhằm chỉ một “công cụ” mà qua công năng của “công cụ” này sẽ đưa đến mục tiêu của người tạo ra nó đồng thời đem lại lợi ích cho người tham gia vào sân chơi do nó tạo ra. Nói cho dễ hiểu, sự tồn tại của các khu này dựa trên hai yếu tố: đạt mục tiêu của chủ thể sinh ra nó và khách thể tham dự vào. Công cụ này trong từ ngữ học thuật kinh tế được gọi là “Định chế”.
Trên cơ sở nhận thức như vậy thì tiền đề đặt ra là: Việt Nam cần gì ở đặc khu kinh tế và doanh nghiệp hưởng lợi gì khi tham dự vào đề án này ở các hình thức khác nhau. Và một điều tối quan trọng nữa cần đặt ra là nhân dân Việt Nam được lợi gì kể cả những người không có điều kiện trực tiếp tham dự vào công cuộc làm ăn ở đây và phải chấp nhận những thiệt thòi nhất thời hữu hình hay vô hình do “công cụ” đó gây ra.
Điều này giống như trong một bộ lạc đang thiếu lương thực, Tù trưởng cần một số người đi săn, nên lương thực ưu tiên cho số người đi săn và phần ăn nhiều hơn. Còn người khác phải nhường bớt phần ăn của mình cho những người tạo ra cái ăn cho bộ lạc. Do đó thành quả của cuộc săn phải có phần của người ở nhà. Đây chính là mục tiêu vĩ mô của bài toán sử dụng công cụ mà ở đây được hiểu là đặc khu kinh tế.
Để tạo ra những chính sách đặc thù cho mỗi “công cụ” chúng ta phải dựa vào bốn yếu tố cơ bản, mỗi “công cụ” đều có mục tiêu rất rõ ràng (khu chế xuất khác với khu công nghiệp, và cũng khác khu kỹ thuật cao, càng khác khu kinh tế tự do v.v…). Từ đó thấy được rõ hơn đối tượng thu hút đầu tư của mỗi “công cụ”. Tiếp theo đó, với mục tiêu cụ thể và nhóm đối tượng thu hút đầu tư cụ thể, chúng ta có thể chọn ra vị trí (địa phương) nào có ưu thế nhất; vị trí có xác suất thành công cao nhất cho từng bài toán, cho từng công cụ. Đây chính là cách làm khoa học nhất, hợp lý nhất để tránh thất bại do thiếu hiểu biết đối với việc xây dựng một “công cụ” kinh tế nào đó. Cuối cùng sự thành bại còn tùy thuộc vào con người thực hiện nhưng điều này ai cũng biết nên không phải luận bàn thêm.
Các yếu tố nói trên, là không thể thiếu nhưng khi vận hành thì thứ tự cũng như tính trọng yếu của các yếu tố đều phải linh hoạt theo tình thế và theo từng giai đoạn mục tiêu cụ thể. Điều này trả lời câu hỏi tại sao có những “công cụ” đạt được thành quả to lớn hoặc khiêm tốn, thậm chí có công cụ phải sớm “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử” (vì không còn phát triển nữa hoặc lỗi thời).
Nhìn lại quá khứ, chúng ta cũng đã tạo ra được nhiều “công cụ” như khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu đô thị mới v.v… trong số này có nhiều khu đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội cho nhiều tỉnh thành trong cả nước. Nổi bật nhất là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh, Vĩnh Phú v.v… với những mô hình thành công nhờ thỏa mãn các yếu tố nêu trên ở một mức độ nhất định.
Còn những “công cụ” với tên gọi là khu kinh tế biển, cảng trung chuyển quốc tế hay đặc khu kinh tế v.v… hình như chúng ta chỉ mới quan tâm nhiều về vị trí (địa phương) như là một yếu tố tiên quyết mà chưa đề ra mục tiêu quan trọng nhất cho chiến lược quốc gia cụ thể như thế nào. Chúng ta cũng chưa tính toán cái giá phải trả để xây dựng ra “công cụ” vừa nêu là bao nhiêu, ai phải trả.
Ngay cả đối tượng khách hàng tham gia là ai, lợi ích của họ là gì chúng ta cũng chưa xác định được. Phải chăng chúng ta cho rằng, cứ nhiều ưu đãi, nhiều đặc quyền thì sẽ tạo ra đặc lợi, thế là họ sẽ “sắp hàng” chờ đợi tham gia! Nếu các ưu đãi và đặc quyền trên sẽ tạo thành công của một đặc khu kinh tế thì thành công đó cũng không có mục tiêu định lượng cụ thể.
Chúng ta nên nhận dạng ra mục tiêu của đặc khu kinh tế luôn rộng hơn và sâu hơn mọi “công cụ” mà chúng ta đã hình thành trước đây như khu chế xuất, khu công nghiệp hay khu kỹ thuật cao. Nhưng suy cho cùng bài toán đặc khu kinh tế khó hơn rất nhiều và giá trị hơn rất nhiều. Nếu so sánh với các “công cụ” trên thì “đặc khu kinh tế Việt Nam” như là một máy “nông cơ liên hợp nông nghiệp” so với các loại máy phát cỏ, máy cấy, máy gặt v.v… là những đầu công cụ mà chúng ta có được trước đây. Đặc khu kinh tế cần một “động cơ” rất mạnh làm động lực và có nhiều đầu công cụ đa dạng với nhiều công năng khác nhau.
Tùy theo yêu cầu mà các đầu công cụ đó hoạt động phối hợp hay hoạt động riêng lẻ để có thể cùng lúc giải quyết mọi yêu cầu của ngành nông nghiệp (được hiểu như yêu cầu của nền kinh tế) với hiệu suất cao nhất. Thậm chí còn giải quyết cả sau thu hoạch như sấy khô, phân loại, đóng gói v.v… Do đó nếu chỉ dựa vào chính sách ưu đãi hay những đặc quyền là không thể hình thành được đặc khu kinh tế đúng yêu cầu. Và việc hình thành đặc khu kinh tế càng không thể bắt đầu từ một địa phương được chọn bằng cảm tính.
Kinh nghiệm thành công các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc vẫn rất đáng cho chúng ta nghiên cứu. Phải có một “động cơ” đủ mạnh sẵn có (như trường hợp khu kinh tế tự do Phố Đông của Thượng Hải) hay mượn một động lực nào đó bên cạnh (như trường hợp Thâm Quyến bên cạnh Hongkong) làm nền tảng. Từ đó mới có thể tính toán tất cả những yếu tố còn lại như đã nêu trên.
Nền kinh tế nước ta hiện nay, đã có một bước phát triển dài về mặt số lượng cũng như hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đây là một yếu tố thuận lợi. Tuy nhiên trong hơn 30 năm mở cửa thu hút đầu tư vừa qua, chúng ta vẫn chưa hình thành một ngành công nghiệp cơ bản đủ tầm đứng vững trên thị trường thế giới. Công nghiệp chúng ta mới chỉ ở giai đoạn gia công, chưa bước qua giai đoạn “bắt chước” (mua pa-tăng để tự chủ sản xuất), càng chưa đến giai đoạn có thể tự sáng tạo ra sản phẩm mới vượt trội.
Đó là nhược điểm lớn nhất, thiếu sót lớn nhất của giai đoạn đổi mới vừa qua. Do đó, nếu xây dựng “đặc khu kinh tế Việt Nam” với mục tiêu chiến lược vĩ mô thì trước hết phải vừa khắc phục các nhược điểm hiện nay trong nền sản xuất và vừa nắm bắt thời cơ của thời thế mới. “Đặc khu kinh tế Việt Nam” sẽ mở màn cho cuộc đổi mới lần thứ hai. Biết đâu qua thành công của những đặc khu này, 30 năm sau chúng ta sẽ vươn lên thành một nước công nghiệp phát triển thật sự, sản xuất ra sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đó cũng là ước mơ của mọi người Việt Nam chúng ta.
(11-2017)