Vừa qua, Nghị quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo được ban hành, thể hiện sự quyết tâm của toàn hệ thống chính trị trong công cuộc đổi mới giáo dục đất nước. Tuy nhiên, nhìn từ nhiều góc độ, bản thân ngành giáo dục sẽ khó mà giải quyết các vấn đề một cách đồng bộ và hiệu quả nếu không có sự đồng hành của toàn xã hội và đáp ứng được một số điều kiện căn bản giáo dục đại học dưới đây.
Định hướng và kế hoạch nguồn nhân lực một cách hiệu quả
Ở bất cứ nền giáo dục nào, yếu tố thị trường và sự chấp nhận của xã hội trong lâu dài về sản phẩm, điển hình là học sinh và sinh viên đã qua đào tạo, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Để phát triển đất nước, kế hoạch nguồn nhân lực phải gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội theo nghĩa rộng. Tại các nước, những nghiên cứu về nguồn nhân lực các cấp thường xuyên được mổ xẻ, phân tích, tranh luận trên các tập san khoa học, diễn đàn hoặc trong các hội thảo một cách rộng rãi. Các trường đại học, trung tâm đào tạo sẽ nghiên cứu và tham khảo các tài liệu cần thiết để lập kế hoạch cho riêng mình.
Một khi kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội trong chu kỳ 10 đến 25 năm còn nhiều bất cập như ở Việt Nam thì khó định hướng và vạch kế hoạch nguồn nhân lực một cách hiệu quả. Thêm vào đó là kế hoạch của Bộ GD-ĐT qua cách quản lý, xét điểm sàn, cấp chỉ tiêu cho các trường ĐH và CĐ hằng năm còn nặng phần tập trung và chủ quan.
Tuy nhiên, vấn đề chính hiện nay không phải là bắt đầu từ chất lượng nguồn nhân lực thấp hay kinh tế chậm phát triển, mà là một định hướng phát triển kinh tế và xã hội ngắn và dài hạn được nghiên cứu, phân tích và đánh giá một cách khoa học và bài bản, được sự chấp nhận của xã hội.
Dưới đây là một ví dụ về mô hình phát triển nguồn nhân lực trong chu kỳ 25 năm. Con số của năm 2013 theo thống kê, còn con số của năm 2038 mang tính giả định. Nhưng đây là mô hình lý tưởng nếu kế hoạch nguồn nhân lực nước ta có thể đạt được trong 25 năm tới, tức là có nền công nghiệp tiên tiến và đòi hỏi sự tập trung đầu tư đúng hướng.
Theo giả định trên thì dân số Việt Nam năm 2038 là 120 triệu người, số tuổi lao động từ 15 – 50+ là 69,6 triệu người, chiếm 58% dân số. Tỷ lệ (%) được tính theo dân số tuổi lao động
Để tận dụng nguồn nhân lực có chuyên môn cao cho ngành giáo dục theo mô hình này, đến thời điểm năm 2038 chúng ta cần khoảng 75% số tiến sĩ, 25% số có chuyên môn cao (Bác sĩ, Nha sĩ, Dược sĩ, Luật sư…) và 10% số thạc sĩ của cả nước tham gia vào công tác giảng dạy ĐH-CĐ. Theo ước tính, hiện nay chỉ có khoảng 40% trong số trên dưới 25.000 tiến sĩ trên cả nước tham gia giảng dạy, phần lớn còn lại làm công tác chuyên môn, quản lý tại các cơ quan nhà nước. Nếu như đa số họ được đào tạo theo chương trình tiến sĩ bài bản thì đây là một nghịch lý và phí phạm lớn, vì mục đích đào tạo tiến sĩ ở các nước là để làm nghiên cứu và giảng dạy, chứ không phải làm quản lý.
Tái cấu trúc mô hình đại học, cao đẳng
Trong nghị quyết vừa được ban hành có phần tái cấu trúc mô hình ĐH-CĐ. Nếu ViệtNammuốn theo mô hình của các nước tiên tiến thì đây là việc nên làm. Tái cấu trúc, tổ chức có thể chia ra thành các nhóm trường như sau:
Nhóm A: Phân loại khoảng 10 ĐH công lớn ở các vùng trung tâm như TP.HCM, Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Cần Thơ thành ĐH nghiên cứu, làm cả hai công tác nghiên cứu và giảng dạy. ĐH nghiên cứu không nhất thiết là tất cả các ngành học đều tham gia nghiên cứu mà nên tập trung vào lĩnh vực có thế mạnh. Ví dụ như ĐH Nha Trang có thể kết hợp với Viện Hải dương học nghiên cứu sâu về biển và ngành hải sản, ĐH Cần Thơ đã có lợi thế về nông nghiệp và công nghiệp chế biến…
Hiện đã có phương án đầu tư nâng cấp vài trường ĐH lớn trong nước để ngang tầm với khu vực và quốc tế (như Thái Lan hiện nay có ba trong số 100 trường hàng đầu của châu Á và hai trong số 300 trường trên thế giới), nhưng cách nhanh và ít tốn kém nhất là đầu tư phát triển ngành mũi nhọn, khai thác có lợi thế có sẵn của một số trường ĐH nghiên cứu, từ đó sẽ kéo theo và san bằng dần sự khác biệt của các ngành khác cùng trường. Điển hình như ĐH UC Davis (Mỹ) trước kia là một trường thuần túy về nông nghiệp, nhưng nay là một trường đa ngành, xếp hạng thứ 39 trong số các trường ĐH danh tiếng nhất nước Mỹ.
Nhóm B: Các ĐH công cấp vùng, tỉnh còn lại. Nhiệm vụ chính là giảng dạy và phát triển các ngành mang tính quản lý, công nghệ và ứng dụng, đáp ứng nhu cầu phát triển ngành nghề cấp vùng hay địa phương.
Nhóm C: Các trường CĐ nên rút ngắn thời gian từ ba năm xuống hai năm, vừa thiết thực và tránh lẫn lộn chương trình 3-4 năm CĐ/ĐH sau này, tập trung vào hai chức năng: Chương trình tương đương hai năm đầu ĐH và đào tạo ngành nghề thích ứng với nhu cầu nhân lực của địa phương.