Ngày càng có nhiều người muốn tìm kiếm một loại thực phẩm ngon bổ rẻ mà lại có tác dụng giúp con người sung mãn, thịt dê có thể là một trong những loại thực phẩm đáp ứng được các nhu cầu này trong tương lai.
Trong 12 con giáp, con Dê được chú ý nhiều nhất là do những truyền thuyết độc đáo ly kỳ như câu chuyện “dê đực đẻ con…”, hoặc “treo đầu dê bán thịt chó”… Thật ra dê có bản tính hiền hòa, ham rong chơi, dễ nuôi, đặc biệt là dê đực thì rất hay “be he” nên những đấng nam nhi có thói trăng hoa cũng bị gọi là “có máu dê” và nam nữ sinh năm dê (Mùi) thường được xem là hay có tính bay bướm.
Trong Y học cổ truyền có vị thuốc tên là Dâm dương hoắc được xem là có tác dụng giúp nam giới chữa thận hư, di tinh, liệt dương. Loài dê đực chỉ ăn loại lá cây này mà giúp chúng có thể động dục nhiều lần trong ngày vì vậy mà dân gian đặt tên cho lá đó tên là “Dâm dương hoắc”. Còn trong nghệ thuật ẩm thực, dê cung cấp cho giới ăn nhậu nhiều món ăn đặc sắc như cà ri dê, vú dê nướng, lẩu dê, dê xào lăn, ngọc dương tửu… Riêng da dê cũng được sử dụng để làm bình đựng rượu và chứa nước.
Dê là một loài vật khá thông minh và rất tò mò, có thể huấn luyện để kéo xe dễ dàng. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới bắt đầu nuôi dê để làm thực phẩm. Tại Hoa Kỳ, con số dê được nuôi lên đến vài triệu con (từ 2.5 đến 3 triệu, nhiều nhất là tại Texas).
Tại châu Âu, nhất là tại Anh, dê được nuôi để lấy sữa và giết thịt. Ở nước ta, người ta chỉ nuôi dê lấy thịt cung cấp cho các quán ăn. Sữa dê cũng đã được chứng minh là tốt hơn sữa bò, nên dê được xem là “bò của người nghèo” và hiện nay Ấn Độ là nước tiêu thụ sữa dê nhiều nhất. Sữa dê đã quý, thịt dê còn tốt hơn vì trong tương lai thịt dê có thể được xem là nguồn dinh dưỡng tốt cho sức khỏe con người.
Thịt dê trên thế giới
Thịt dê được tiêu thụ khá phổ biến tại một số quốc gia như Ấn Độ (gọi là gosht), Pakistan, Nepal (bokko komasu) và tại vùng Bắc Trung Hoa, nơi thịt dê được dùng để thay thế thịt trừu trong nhiều món ăn địa phương. Thịt dê có đặc điểm là rất ít mỡ nhưng lại có mùi khá nồng.
Mùi nồng này là do trong thịt dê có chứa các acid đặc biệt là acid 4-methyloctanoic và 4-methylnonanoic. Ở Mỹ, người ta tiêu thụ thịt dê non (gọi là Kids) ăn tái hoặc đút lò. Còn Philippines là quốc gia ăn thịt dê mạnh nhất với nhiều món đặc biệt như Caldereta (dê hầm súp me), Kilawin… và tại Manila có rất nhiều nhà hàng chuyên bán các món ăn từ dê.
Về mặt Y học và Dinh dưỡng học, ở phương Tây người ta thường phân tích thành phần dinh dưỡng trong các loại thịt để so sánh loại thịt nào tốt hơn hoặc bổ hơn. Thịt dê cũng như các loại thịt động vật khác được đánh giá bằng các thành phần chất đạm, chất béo… chứ không phân tích theo hàn nhiệt âm dương như y học cổ truyền.
Theo Đông y, thịt dê hay dương nhục được xem là có tính nóng, vị ngọt, có tác dụng khai vị, thông khí. Tác động chính vào các kinh mạch thuộc Tâm và Thận, giúp cứng chắc gân cốt, nam giới cường dương, đối với phụ nữ giúp bổ khí thông huyết, nó còn làm giảm mệt mỏi cho những người lao lực.
- Xem thêm: Ngồ ngộ món… thỏ lai dê
Một số danh y Trung Hoa xưa đã viết nhiều về thịt dê:
- Tôn Tư Mạc (590-682), đời Đường trong “Thiên Kim Dực Phương”, thịt dê rất tốt cho phụ nữ sau khi sanh nở, giúp điều hòa khí huyết.
- Vương Đào (675-755), đời Đường trong “Ngoại Đài Bí Yếu”, thịt dê có khả năng chữa được các chứng ốm còi, suy nhược nơi người lớn và trẻ em.
- Lý Đông Viên có lẽ là danh y đầu tiên ghi nhận tác dụng “bổ dương” của thịt dê khi ghi rằng ăn thịt dê sẽ trị được nam giới bị chứng bất lực và thiếu tinh trùng.
- Lý Thời Trân, trong “Bản Thảo Cương Mục”, đã so sánh thịt dê với Sâm, và cho rằng thịt dê tốt hơn khi dùng cho người ốm yếu và suy nhược.
- Trương Trọng Cảnh đã chỉ cách dùng thịt dê trong “Hồ hiệp dương nhục thang” như sau: Thịt dê (400 gram) được hầm đến nhừ, thêm vào các vị Đương quy, Thược dược, Cam thảo (mỗi vị 30 gram) đun nhỏ lửa thêm 30 phút. Ăn mỗi ngày 1 chén có thể dùng để trị các chứng phụ nữ suy nhược, người cảm thấy lạnh, đau thắt ngang lưng, lãnh cảm.
Dược học cổ truyền Việt Nam cũng dùng thịt dê làm thuốc chữa bệnh:
- Theo Tuệ Tĩnh trong “Nam Dược Thần Hiệu”, thịt dê hay dương nhục, vị đắng ngọt, tính rất nóng, ích cho tâm tỳ, bổ được hư lao hàn lạnh, trừ kinh giản, trị bị gió chóng mặt, đau lưng, chữa liệt dương.
- Hải Thượng Lãn Ông trong “Lĩnh Nam Bản Thảo”, dương nhục tục gọi là thịt dê nóng nhiều, ngọt đắng, ích tâm tỳ, bổ hư lao lạnh, trừ kinh giãn phong, đầu choáng, lưng đau, dương suy.
Lợi ích từ thịt dê
Thịt dê được coi là thịt đỏ chủ yếu được tiêu thụ trên nhiều nước chính nhờ mức độ protein và sắt rất cao nhưng chất béo lại rất thấp so với các loại thịt đỏ khác như bò, cừu hoặc thịt trắng như thịt gà. Thịt dê được chứng minh có chứa tất cả các chất dinh dưỡng lành mạnh cần thiết cho cơ thể với hàm lượng cao.
Trong thịt dê có các vitamin nhóm B (B1, B2, B3, B9, B12), vitamin E, vitamin K, choline, protein, chất béo tự nhiên, betain, rất nhiều acid amin, các chất khoáng (mangan, canxi, sắt, kẽm, đồng, phốt pho, selenium), điện giải (natri, kali), acid béo chưa bão hòa omega 3 và omega 6. Các nhà khoa học đã chứng minh thịt dê mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe như sau:
- Trên tim mạch, thịt dê ít chất béo bão hòa nhưng lại nhiều chất béo không bão hòa, ít Na mà nhiều Kali nhờ vậy ăn thịt dê an toàn cho tim và giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch và các bệnh mãn tính khác. Nhờ chất béo không bão hòa giúp cải thiện mức cholesterol trong máu tốt, duy trì nhịp tim, điều hòa huyết áp, ngừa xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành và giữ cho trái tim luôn khỏe mạnh.
- Trên người thừa cân, thịt dê chứa nhiều protein trong thịt nạc, chất béo bão hòa lại thấp, do đó người ăn thịt dê giúp kiểm soát trọng lượng và làm giảm nguy cơ béo phì. Protein được tìm thấy trong thịt dê hoạt động như một tác nhân ức chế cơn đói và giữ cho dạ dày đầy trong thời gian dài hơn do đó giúp kiểm soát trọng lượng. Nó còn chứa nhiều vitamin và chất dinh dưỡng giúp cho việc đốt cháy chất béo nhờ vậy làm giảm lượng mỡ thừa trong cơ thể.
- Trên thai phụ, thịt dê ngăn ngừa thiếu máu trong thai kỳ để cả mẹ và bé cùng phát triển tốt nhờ làm tăng mức độ hemoglobin trong máu ở mẹ và tăng cường cung cấp máu cho thai nhi vì nó chứa hàm lượng sắt cao (3mg sắt/100g). Ăn thịt dê còn ngăn ngừa các bệnh gây ra do thiếu sắt, làm giảm nguy cơ gây dị tật bẩm sinh và dị tật ống thần kinh ở các em bé mới sinh. Đồng thời, mức độ cao của vitamin B12 giúp nuôi dưỡng các tế bào máu và làm cho thai phụ khỏe mạnh.
- Trên hệ sinh dục, ăn thịt dê có thể giúp cải thiện sức mạnh tình dục ở nam giới vì nó có chứa nhiều kẽm giúp tăng cường khả năng sinh lý của nam giới và làm tăng số lượng và chất lượng của tinh trùng. Đối với nữ thịt dê giúp phục hồi chất sắt mất đi trong chu kỳ kinh nguyệt và làm giảm các cơn đau bụng kinh do co thắt cơ trơn. Ăn thịt dê còn giúp phụ nữ tránh lạnh thắt lưng và các chứng lãnh cảm.
- Trên da, ăn thịt dê giúp có một làn da khỏe mạnh, mềm mại, dẻo dai, sáng và mịn màng. Nó phòng ngừa các bệnh về da như bệnh vảy nến, eczema, mụn trứng cá, chàm, đỏ da, dị ứng da và các bệnh khác bằng cách nuôi dưỡng làn da nhờ các chất collagen tự nhiên, nó giúp da giữ ẩm cao chống khô và nhăn do thời tiết hoặc do lão hóa.
- Trên hệ miễn dịch, thịt dê làm tăng hoạt động của hệ thống miễn dịch và làm tăng sức đề kháng cơ thể ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng.
- Trên hệ nội tiết, thịt dê giúp duy trì hoạt động của tuyến giáp và tuyến tụy, nó giúp ổn định lượng đường trong máu do đó có thể kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường.
- Trên hệ thần kinh, thịt dê giúp tăng cường bộ nhớ nhất là đối với trẻ em và giúp cho chúng phát triển trí não. Người lớn ăn thịt dê sẽ giúp tâm trạng phấn chấn tươi tỉnh, giảm căng thẳng thần kinh và chống stress.
- Một nghiên cứu đáng chú ý từ thịt dê nữa là nó có tác dụng chống oxy hóa tế bào rất mạnh nhờ chứa nhiều vitamin nhóm B, vitamin E, selenium và choline giúp tiêu diệt các gốc tự do có hại cho tế bào, do đó ăn thịt dê cũng rất có lợi cho việc ngăn ngừa các bệnh ung thư.
- Trên hệ xương, nhờ thịt dê chứa vitamin niacin thúc đẩy quá trình chuyển hóa năng lượng. Các khoáng tố vi lượng đặc biệt nhiều Ca và Mn tốt cho xương, răng và tóc. Thịt dê ngon và lành mạnh sẽ giúp ngăn ngừa loãng xương, giảm đau các khớp, giảm đau răng và chống rụng tóc.
Món ăn bài thuốc có thịt dê
Thịt dê chiếm khoảng 63% của tất cả các loại thịt đỏ tiêu thụ rộng trên thế giới. Australia và New Zealand là nhà xuất khẩu chính của thịt dê đến Hoa Kỳ (hơn 90%). Ở Anh, người ta sử dụng phó mát từ sữa dê. Còn ở Ấn Độ, miền Nam châu Âu, Trung Đông, châu Phi, Caribê, Mỹ Latin và châu Á – thịt dê luôn luôn là phổ biến.
- Xem thêm: Ăn thịt chú… 35
Ở Hàn Quốc và Philippines, thịt dê được xem là một món kích thích tình dục. Ở Jamaica còn gọi là “đất nước của quý ông”, đặc biệt có một món canh dê mà gần như có chứa tất cả chất bổ sẽ được phục vụ cho chú rể trong đêm tân hôn.
- Thịt dê hầm hà thủ ô. Gồm hà thủ ô 15g, thịt dê 100g, đậu đen 30g. Thịt dê rửa sạch, cắt nhỏ, xào qua. Cho hà thủ ô, đậu đen và 3 chén nước vào hầm nhừ, cho gia vị vừa ăn. Ngày ăn 2 lần. Tác dụng tư bổ can thận, nam giới bị tiểu đường, can thận hư đều có thế sử dụng được.
- Thịt dê hầm tỏi. Gồm thịt dê 50g, tỏi 10g. Thịt dê thái miếng, ướp gia vị, cho tỏi và thịt dê vào nồi, hầm nhừ, cho gia vị vừa ăn. Dùng liên tục từ 7 đến 10 ngày. Bài này giúp bổ thận, tráng dương, sinh tinh, ích tủy thích hợp với người bị chứng thận dương suy, đau lưng, nhức mỏi, di tinh, mộng tinh.
- Đương quy sinh khương dương thang. Gồm thịt dê 200g, gừng tươi 12g, đương qui 20g. Thịt dê làm sạch thái lát, gừng cạo vỏ ngoài đập giập, cho vào nồi hầm chung với đương qui. Khi thịt chín nhừ, vớt bỏ xác thuốc, nêm gia vị, tiêu vừa ăn. Ăn 2 – 3 lần trong ngày. Dùng cho người cao tuổi thể trạng suy nhược, phụ nữ sau sinh đẻ huyết hư thiếu máu, người bệnh suy nhược.
- Cháo thịt dê sâm kỳ linh táo. Gồm thịt dê 100g, hoàng kỳ 30g, nhân sâm 6g, phục linh 15g, đại táo 5 quả, gạo tẻ 100g. Đem các dược liệu sắc lấy nước, dùng nước sắc nấu với gạo thành cháo, thịt dê thái lát cho vào cháo, khi cháo chín nhừ thêm gia vị thích hợp. Dùng cho các trường hợp người hư lao gầy sút, người đổ mồ hôi nhiều, cơ thể suy nhược.
- Thịt dê hầm sơn dược. Gồm thịt dê 250g, sơn dược 100g, kỷ tử 25g, long nhãn 15g, đại táo 10 quả. Tất cả hầm chín nhừ thêm gia vị. Dùng cho nam giới thận dương hư, di tinh liệt dương, suy sinh dục, ăn tối trước khi đi ngủ.
- Đương quy dương nhục canh. Gồm thịt dê 500g, hoàng kỳ 25g, đảng sâm 25g, đương qui 25g. Thịt dê rửa sạch thái lát, hoàng kỳ, đảng sâm, đương qui thái nhỏ, nấu với thịt dê cho chín nhừ, cho gừng tươi đập giập, muối ăn và các gia vị khác thích hợp, tiếp tục cho sôi đều, lấy bỏ bã thuốc. Ăn nóng. Dùng cho phụ nữ sau đẻ, cơ thể suy nhược thiếu máu, sốt nhẹ, vã mồ hôi, lạnh tay chân.
- Súp thịt dê củ mài, dùng cho người già suy dinh dưỡng, ăn ngủ kém, trẻ em còi xương chậm lớn, gồm thịt dê 500g, gừng tươi 15g, hành tươi 30g, sơn dược 500g. Thịt dê bỏ màng, rửa sạch nhúng nước sôi, đem thái lát to, gừng tươi, hành tươi đập giập để sẵn, sơn dược thái lát. Tất cả cho vào nồi, thêm tiêu, dấm, rượu, nước. Đun to lửa, vớt bọt, sau đó đun nhỏ lửa cho chín. Vớt bỏ bã gừng hành, thêm gia vị, chia ăn nhiều bữa.
- Ở nhiều nước, người ta ăn thịt dê ở dạng nướng, đút lò, quay, hầm với rượu táo hoặc rượu vang, nấu cà ri, nấu ra-gu, nên đun kỹ để phá vỡ cấu trúc collagen trong thịt.
Hãy thử nấu món cà ri dê hầm Talmatie, gồm 200g thịt dê nạc cắt khúc nhỏ, 1 củ hành tây băm nhuyễn, rau mùi tươi xắt nhỏ, 4-5 tép tỏi nghiền nát, 2-3 quả ớt đỏ tươi, 1 muỗng canh masala, 2 muỗng cà phê bột nghệ, 1 muỗng cà phê muối, 2 muỗng canh dầu thực vật, 1 muỗng hạt cỏ cà ri, 3 muỗng canh bột cà ri vàng, một nhúm hạt cumin, 2-3 chén nước hầm gà, một muỗng cà phê rau thì là. Cách tiến hành: chuẩn bị thịt dê bằng cách cắt bỏ mỡ và gân cho vào nồi đun trong 10 phút. Vớt thịt ra trộn đều với hành tây, rau mùi, tỏi, ớt, masala, nghệ, và muối. Cho vào tủ lạnh 1-2 giờ. Sau khi thịt đã ướp xong, bắt đầu đun nóng dầu trong chảo sau đó thêm ít thì là và cỏ cà ri chiên cho đến khi vàng nâu, thêm một ít hành tây và chiên cho đến khi vàng – các loại gia vị sẽ biến gần như đen, thêm bột cà ri và nấu trong 30 giây, khuấy liên tục để nó không cháy, cho hỗn hợp thịt dê vào. Nâng cao nhiệt độ cao trong một vài phút và sau đó giảm lửa vừa trong khoảng 15 phút. Thêm nước hầm gà, và đun nhỏ lửa cho nhẹ nhàng 30-40 phút hoặc cho đến khi thịt mềm. Dọn ra trang trí với rau thì là và ăn với cơm.
Bảo quản thịt dê ở ngăn đá có thể lưu trữ đến 6 tháng. Mỗi ngày ăn 50-100g là đủ và tránh ăn liên tục nếu không phải chữa bệnh.
Lưu ý khi ăn thịt dê
Thịt dê đúng là rất tốt cho quý ông nhưng bên cạnh đó cũng có những điểm cần chú ý vì nếu ăn thường xuyên và quá nhiều có thể gây tăng huyết áp và tăng cân, thống kê cho thấy, thịt dê được chế biến dạng sa tế, giá trị calo là 150, nếu chế biến thành cà ri, giá trị calo là 125 và khi chế biến thành các món súp, giá trị calo chỉ có 35 calo.
Để giảm thiểu các tác động tiêu cực sau khi ăn thịt dê, các chuyên gia cũng có lời khuyến cáo.
- Tránh ăn chung với các loại thực phẩm béo và ngọt, tốt hơn là không ăn thịt dê có mỡ nhiều. Không ăn chung thức ăn có đường như bánh ít, xi-rô và những loại tương tự.
- Chọn món chế biến thịt dê ít calo. Tốt nhất là các món canh thịt dê.
- Tập vài động tác thể dục nhẹ có thể làm giảm các tác động tiêu cực sau khi ăn thịt dê. Với tập thể dục vừa phải như chạy bộ chậm hoặc đạp vài vòng xe đạp từ từ, giúp cơ thể đốt cháy calo và chất béo.
- Nên ăn thêm trái cây và rau quả, ăn nhiều thịt dê rất nóng nên kèm các loại rau xanh, quả như cà chua, dưa chuột hoặc cà rốt là sự lựa chọn tốt nhất.
- Tuyệt đối tránh ăn thịt dê đối với những người có tiền sử cao huyết áp, vì có thể làm tử vong do huyết áp tăng đột ngột.