Đã qua rồi cái thời mà lao động giá rẻ là một lợi thế thu hút đầu tư nước ngoài. Các tập đoàn lớn ngày càng cân nhắc giữa chi phí cho đồng lương và năng suất người lao động, mà sự lựa chọn thường là năng suất. Chính vì vậy các thông số về năng suất lao động do các định chế quốc tế có uy tín đưa ra luôn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, đồng thời cũng là nỗi trăn trở của các nước có cùng hoàn cảnh và cạnh tranh thu hút vốn FDI.
Mới đây Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong một công bố chính thức cho thấy năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ở châu Á – Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Tất nhiên năng suất lao động còn phụ thuộc vào yếu tố khác, như máy móc, công nghệ, nhưng con người vẫn là yếu tố chính.
Vấn đề nhức nhối là sau bao nhiêu năm cải tổ chính sách về giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực của chúng ta vẫn không đáp ứng với yêu cầu phát triển, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp của Việt Nam chưa đến 20% trong khi của Singapore là gần 80%.
Tổ chức Lao động Quốc tế từng đánh giá nguồn lao động trẻ và dồi dào đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội, nhưng trình độ kỹ năng và chuyên môn thấp của người lao động lại cản trở Việt Nam nắm bắt những cơ hội làm việc tốt. Trầm trọng hơn nữa là sự chênh lệch giữa kỹ năng của hệ thống giáo dục và đào tạo trang bị cho người lao động và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai.
Một báo cáo về “Vấn đề Thất nghiệp và Việc làm 2014” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Hương, Viện Khoa học Lao động và Xã hội tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2014, cho thấy đến hết quý II-2014, vẫn còn trên 43,760 triệu người, chiếm 81,75% lực lượng lao động, chưa được đào tạo. Số lao động qua đào tạo (chỉ tính số có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật) được xem là rất thấp với khoảng 18,25% tổng số lao động và tăng rất chậm (năm 2010 là 14,7%).
Hiện có trên 22 triệu người không có chuyên môn kỹ thuật hoặc có chuyên môn kỹ thuật nhưng không có chứng chỉ bằng cấp, đang làm những nghề đòi hỏi có chuyên môn kỹ thuật. Trong khi đó lại có tới 750.000 người có trình độ đại học và trên đại học đang làm các nghề yêu cầu chuyên môn thấp hơn.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực lao động – việc làm, Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với nguồn lao động khoảng 54,87 triệu người và hằng năm có khoảng trên 1 triệu người tham gia vào thị trường lao động. Thế nhưng đang tồn tại một thực tế đáng buồn là năng suất lao động thấp, ngành nghề đào tạo không phù hợp với thị trường, mất cân bằng giữa cung và cầu. Chẳng hạn như lao động ở nông thôn hiện đang dư thừa thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ trung, cao cấp lại thiếu hụt lao động trầm trọng.
Hằng năm, ngân sách nhà nước bỏ ra hàng chục nghìn tỉ đồng để đào tạo nghề, nhưng tình trạng lao động thất nghiệp không tìm được việc làm và tỷ lệ lao động thủ công, gia công đơn giản và khi vào các doanh nghiệp thì hầu như phải đào tạo lại.
Điều này được minh chứng ngay tại khu công nghiệp Yên Phong (Bắc Ninh). Khi Samsung là doanh nghiệp có quy mô đầu tư lớn nhất tại khu công nghiệp này tuyển dụng lao động thì hầu như chỉ tuyển các học sinh vừa hoàn tất trung học phổ thông để đào tạo từ đầu. Điều đáng nói là ứng viên có bằng tốt nghiệp đại học hay cao đẳng khi được tuyển dụng thì Samsung cũng vẫn phải đào tạo lại.
Kết quả khảo sát nghiên cứu gần đây giữa Viện Khoa học Lao động và Xã hội với Tập đoàn Manpower tại 6.000 doanh nghiệp thuộc chín lĩnh vực kinh tế tại chín tỉnh thành ở Việt Nam cho thấy, có đến một phần tư doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng lao động thiếu hiểu biết về công nghệ và khả năng sáng tạo, 1/5 nhận xét lao động thiếu khả năng thích nghi với công nghệ mới, 1/3 doanh nghiệp không tìm được lao động có kỹ năng mà họ cần.
Tại một số ngành như chế biến thực phẩm, y tế, xây dựng, vận tải, hóa chất, dệt có tình trạng lao động thiếu hụt kỹ năng nghiêm trọng. Lợi thế về chi phí nhân công thấp tại Việt Nam đang dần mất đi sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Một nguyên nhân khác khiến năng suất lao động của chúng ta không cao là do trình độ quản lý lao động kém và cào bằng thu nhập, do cấp trung gian không có đủ kỹ năng nhận biết trình độ chuyên môn của từng người dưới quyền. Điều này tạo nên tâm lý tiêu cực khiến người lao động không có động lực làm việc.
Cũng phải kể đến một nguyên nhân nữa là sự luân chuyển lao động rất cao và việc làm không đúng nghề được đào tạo. Có thời điểm một nhà máy một ngày phải tuyển tới 500 người, cứ tuyển vào, đào tạo rồi công nhân lại đi, lại tuyển mới vào. Sự chắp vá trong kế hoạch nhân lực khiến năng suất lao động không thể cao được.
Một trong những yêu cầu đặt ra hiện nay là người lao động sau khi học nghề phải được sống bằng nghề đã được học. Điều này ai cũng biết nhưng thực tế không hề đơn giản, vì rất nhiều người phải làm việc ở những lĩnh vực mình không được đào tạo và tình trạng mất cân bằng giữa cung và cầu ngày càng trầm trọng. Càng trình độ cao thì càng thất nghiệp nhiều, càng ít cơ hội tiếp cận việc làm.
Theo thống kê do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng Tổng cục Thống kê công bố, trong quý IV năm 2013 cả nước có 900.000 người thất nghiệp, trong đó có tới 72.000 cử nhân, thạc sĩ. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là công tác phân luồng đào tạo nhằm định hướng cho học sinh về nghề nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường còn hạn chế.
Cùng với đó, hậu quả của việc “mạnh ai người ấy đào tạo” đã thấy rõ nhưng vẫn không khắc phục được. Nhiều sinh viên ra trường phải làm trái ngành, trái nghề, không có chuyên môn trong lĩnh vực hoạt động của mình. Theo khảo sát của công ty tư vấn nhân lực Manpower, tại Canon Việt Nam có hàng nghìn công nhân đã tốt nghiệp đại học chỉ khai nhận đã tốt nghiệp phổ thông để tránh bị dị nghị.
Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐ-TB&XH) cho rằng cơ cấu nhân lực cho doanh nghiệp sản xuất cần khoảng 50% lao động phổ thông, 35% trình độ sơ cấp trở lên và 15% còn lại là tốt nghiệp đại học. Vậy mà từ bao nhiêu năm nay chúng ta tập trung cho đào tạo đại học là chủ yếu, con số 80% số học sinh tốt nghiệp THPT vào đại học đã lý giải tình trạng tỷ lệ sinh viên ra trường thất nghiệp đông và làm trái ngành, trái nghề là điều dễ hiểu.
Theo ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, suy cho cùng năng suất lao động thấp chính là sự mâu thuẫn giữa mô hình tăng trưởng kinh tế hiện tại và chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Phát triển kinh tế dựa chủ yếu vào công nghệ cao và năng suất lao động đã được đưa vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 10 năm trước đây. Song sau một thời gian đột phá, chất lượng nguồn nhân lực nước ta vẫn quá thấp. Năng suất lao động thuộc loại thấp trong khu vực, cơ cấu lại bất hợp lý.
Hiện tại, tỷ lệ đóng góp từ nhân lực, trí tuệ, năng suất lao động, công nghệ vào tăng trưởng ở nước ta chỉ chiếm 28%, so nhiều nước trong ASEAN là 40% và các nước phát triển là 70%.
Năng suất lao động là một thông số quan trọng làm cơ sở để xác định mức lương. Báo cáo mới đây của ILO/ADB về Cộng đồng ASEAN 2015 cho thấy những quốc gia có năng suất lao động cao thường có mức lương cao hơn.
Dưới góc độ quốc tế, chuyên gia cao cấp về Quan hệ Lao động của ILO Việt Nam, ông Yoon Youngmo khuyến cáo, tốc độ tăng lương và mức độ phức tạp ngày một gia tăng của nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc lương tối thiểu không còn là công cụ hữu ích như trước đây để áp đặt xu hướng tiền lương cho người lao động được hưởng lương trong nền kinh tế chính thức. Cần phải có các cơ chế quy định lương hữu hiệu hơn. Những cơ chế này cần tính đến sự phát triển của thị trường lao động và đảm bảo rằng tăng trưởng lương phải phù hợp với tăng năng suất lao động. Từ đó đặt ra vấn đề tìm được chiến lược phát triển để vừa sử dụng được nguồn lao động dồi dào hiện nay, vừa quyết liệt đầu tư dài hạn cho nhân lực công nghệ cao phù hợp với chiến lược phát triển các ngành kinh tế. Điều rất quan trọng nữa mà các nhà hoạch định chính sách cần lưu tâm đó là tăng lương mà không tăng năng suất lao động là đặt gánh nặng trên vai các doanh nghiệp trong lẫn ngoài nước chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của nước ta.
Nhìn chung, trong việc cải thiện năng suất lao động thấp ở nước ta thì giáo dục và nhất là đào tạo có vai trò quyết định. Vậy vấn đề đặt ra là chừng nào ngành giáo dục vẫn còn loay hoay chưa tìm lối ra khả dĩ đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nước ta, thì năng suất lao động thấp vẫn còn là lực cản lớn của phát triển đất nước.
Hoàng Hà