Mặc dù tăng trưởng tín dụng của toàn ngành ngân hàng năm nay bị giới hạn ở mức 14%, song việc đặt kế hoạch tăng trưởng khá cao cho thấy nhiều ngân hàng vẫn tự tin trong việc hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận.
Duy trì xu hướng tăng lợi nhuận
Mùa đại hội đồng cổ đông các ngân hàng đang đến gần. Trong kỳ đại hội này, nhiều ngân hàng dự kiến sẽ đặt ra kế hoạch kinh doanh năm 2019 với lợi nhuận duy trì xu hướng tăng. Cụ thể, Vietcombank đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận trước thuế năm 2019 vào khoảng 12% so với mức 18.300 tỉ đồng đạt được năm 2018, lên 20.000 tỉ đồng; tổng tài sản dự kiến tăng 12%, tăng trưởng tín dụng 15% và duy trì nợ xấu dưới 1%.
Trong khi đó, HDBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế đạt 5.077 tỉ đồng năm 2019, tăng 26,8%. Năm 2018, lợi nhuận của nhà băng này đã tăng tới 65,7%, đạt 4.005 tỉ đồng. Năm nay, thương vụ sáp nhập PGBank vào HDBank nếu sớm hoàn tất được dự báo sẽ tác động tích cực và có khả năng lợi nhuận của HDBank sẽ cao hơn con số trên.
Sau khi vượt kế hoạch lợi nhuận năm 2018 (đã được điều chỉnh mạnh vào thời điểm cuối năm), VietinBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế với con số dự kiến 9.500 tỉ đồng trong năm 2019. Song song đó, tăng trưởng tín dụng của VietinBank dự kiến chỉ ở mức 6 – 8%, do áp lực phải nâng tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Với Ngân hàng Quân đội (MB), mục tiêu lợi nhuận hợp nhất năm 2019 là 9.895 tỉ đồng, tăng 27% so với năm 2018, trong đó lợi nhuận trước thuế của ngân hàng mẹ là 8.525 tỉ đồng, tăng 21%, tỷ lệ trả cổ tức năm 2019 ở mức 14%. Tổng tài sản MB dự kiến tăng 12% và vượt mốc 400.000 tỉ đồng; vốn điều lệ tăng 20% đạt 25.841 tỉ đồng; vốn huy động tăng 14% đạt 273.696 tỉ đồng; dư nợ cho vay dự kiến tăng tới 20% đạt 257.118 tỉ đồng và tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát dưới 1,5%.
Không riêng các ngân hàng lớn, một số nhà băng nhỏ cũng đặt kế hoạch đầy tham vọng cho năm 2019. Điển hình như Nam A Bank đặt mục tiêu lợi nhuận 800 tỉ đồng, cao hơn so với mức đạt được năm ngoái. Đáng chú ý, năm 2018, Nam A Bank đặt mục tiêu đạt lợi nhuận trước thuế chỉ ở mức 320 tỉ đồng, tuy nhiên thực tế đã đạt được hơn 740 tỉ đồng – mức cao nhất từ trước tới nay, vượt hơn 200% so với chỉ tiêu.
Kỳ vọng vào các nguồn thu ngoài tín dụng
Mặc dù tăng trưởng tín dụng của toàn ngành ngân hàng năm nay bị giới hạn ở mức 14%, song với việc đặt kế hoạch tiếp tục tăng trưởng khá cao, nhiều ngân hàng vẫn khá tự tin trong việc hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận. Nếu như năm 2018, nhiều ngân hàng có các khoản lợi nhuận đột biến từ thu phí dịch vụ, xử lý nợ xấu đã được trích lập, liên kết với các công ty bảo hiểm (bancassurance), chốt lời danh mục đầu tư trái phiếu thì hoạt động năm 2019 được dự báo sẽ khó khăn hơn do các nguồn thu đột biến nêu trên khó có thể xuất hiện nhiều tại phần lớn các ngân hàng.
Tuy nhiên, ở góc độ đơn lẻ hơn, một số ngân hàng vẫn có thể có các câu chuyện riêng tạo nên lợi thế để hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận. Điển hình là một số ngân hàng bắt đầu tấn công mạnh hơn vào mảng bán lẻ như MB, Vietcombank… sẽ có cơ hội mở rộng tỷ lệ lãi thu nhập cận biên (NIM) hay một số ngân hàng nếu trước năm 2019 vẫn chưa tham gia mạnh vào mảng bancassurance thì nay sẽ có cơ hội thu được các khoản phí trả trước nếu chính thức ký hợp đồng với các công ty bảo hiểm (up-front fee).
Trong một phân tích mới đây, Moody’s đánh giá các ngân hàng Việt đang có khả năng sinh lời cao hơn nhờ chênh lệch lãi ròng tăng và chi phí tín dụng thấp hơn. Từ đó, chất lượng tài sản của nhà băng cũng được cải thiện vì họ sử dụng lợi nhuận để trích lập dự phòng rủi ro, xử lý nợ xấu hình thành trước đây. Cụ thể, các ngân hàng mà Moody’s xếp hạng đạt được tỷ lệ ROA cao hơn trong hai năm qua, từ mức 0,9% năm 2017 lên 1,1% năm 2018.
Thu nhập ròng của các ngân hàng tăng 35%, đạt 70.000 tỉ đồng năm 2018, mặc dù có sự điều chỉnh về tăng trưởng tín dụng. Cũng theo Moody’s, trong năm 2019 các ngân hàng Việt được xếp hạng sẽ đạt tỷ suất sinh lợi cao hơn nữa. Nguyên nhân chính vẫn nhờ sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ngày càng lớn, trong khi chi phí tín dụng thấp hơn. Tuy nhiên, Moody’s cho rằng hầu hết các ngân hàng Việt sẽ thiếu vốn để đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt của tiêu chuẩn Basel II, chuẩn bị có hiệu lực kể từ năm 2020.