Khi những người thợ săn thời tiền sử dùng nọc rắn trét vào đầu mũi tên, chúng ta đã lấy món quà độc của thiên nhiên chĩa thẳng vào nhau lần đầu tiên trong lịch sử. Đó tuyệt nhiên không phải là lần sau cùng.
Qua nhiều thế kỷ, các loại độc chất khác nhau đã được bào chế, và chọn lựa thông thường nhất là bất cứ cái gì có thể tìm thấy từ thảo mộc tại chỗ hay trên kệ của các thầy thuốc. Alfred Swaine Taylor, một chuyên gia độc chất vào thế kỷ 19, đã từng nói: “Độc chất với liều lượng thấp là thuốc, và thuốc ở liều cao là độc chất. Các chất độc cổ điển như độc cần (hemlock), cà dược (nightshade), phụ tử (aconite), mao địa hoàng (foxglove), thuốc phiện (opium), mã tiền (strychnine) được dùng để chữa trị hàng loạt bệnh tật, từ nhức đầu đơn giản cho đến đau tim và thâm chí làm đẹp. Chất độc kim loại như thủy ngân, chì, thạch tín vẫn còn là những thành phần dược liệu nằm trên kệ của các nhà thuốc cho đến tận ngày nay. Khi nào con người còn cần phải chữa bệnh cũng như giết người, độc chất vẫn còn là phương tiện.
Vua độc chất, độc chất của vua
Ngay từ buổi ban đầu, độc chất đã là công cụ giết người của các hoàng đế, các pharaon và vị vua. Vào khoảng 1.500 năm TCN, người Ai Cập đã nguệch ngoạc ghi lại các công thức độc chất bằng kiểu chữ hình nêm trên giấy sậy Ebers và đó tài liệu y học đầu tiên của nhân loại. Người ta tin vị pharaon đầu tiên Menes đã thử nghiệm độc chất chết người và kẻ cuối cùng là nữ hoàng Cleopâtre đã dùng nó để tự giết mình. Các nền văn minh cổ Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp cổ đại đều dùng độc chất để giết đối thủ, giành quyền cai trị. Các hoàng đế Mughal ở Ấn Độ thường tặng cho kẻ thù những chiếc áo có tẩm thuốc độc. Socrate bị buộc phải uống chén thuốc sắc độc cần (hemlock).
Vào thời La Mã, độc chất được sử dung lan tràn đến mức đạo luật Lex Cornelia phải ra đời để cấm sử dụng bất kỳ loại rượu độc nào, nhưng tình hình chỉ gia tăng chứ không giảm. 6 vị hoàng đế phải chết vì đầu độc, trong đó có cả hoàng đế Claudius. Ông bị vợ là Agrippinia giết chết để đoạt ngôi của thái tử Nero cho con riêng của mình. Nhưng Nero cũng lại đầu độc em trai, con riêng của mẹ kế, để giành lại ngai vàng!
Nhưng không có vị vua nào bị chất độc ám ảnh kinh hoàng bằng vua Mithridates IV cai trị xứ Pontos (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) cách nay 2.000 năm. Chính mắt nhìn thấy mẹ mình đầu độc cha, ông luôn tìm cách để có đủ mọi loại thuốc giải! Đến nỗi lịch sử còn ghi lại: ông là vua chất độc! Ông uống hàng loạt chất độc khác nhau với số lượng nhỏ, kèm theo thuốc giải. Bất ngờ Mithridates tìm ra được một công thức bí mật để giải mọi độc chất mà sau này người ta vẫn còn thèm thuồng. Khi tướng La Mã Pompey đem quân đánh chiếm Pontos, công thức bí mật này chính là cái mà ông ta muốn chiếm lấy. Oái oăm thay, khi thua trận, Mithridates tìm cách tự tử bằng thuốc độc, nhưng lại không chết! Ông phải nhờ một người lính hầu giết chết mình để khỏi rơi vào tay kẻ thù.
800 năm sau, độc chất có bước tiến bộ đột phá chưa từng thấy. Một trong các nhà tư tưởng vĩ đại của Hồi giáo trong thời kỳ vàng son là Jabir Ibn Hayyan đã chế tạo được một loại bột trắng, không mùi, không vị, hoàn toàn không phát hiện được trong cơ thể con người. Đó là một hợp chất giết người mang tên thạch tín (arsenic). Đó là một nguyên tố thiên nhiên có mặt khắp nơi, trở thành độc chất khi biến thành arsenic trioxyde hay arsenic trắng.
Arsenic gây chết chóc khi hủy diệt năng lượng chuyển đến tế bào, làm cho nó chết, dẫn đến việc ngưng hoạt động của cơ thể. Với liều lượng đủ hay được tích lũy dần dần, các cơ quan nội tạng bị tê liệt. Triệu chứng giống mắc bệnh tự nhiên như nôn mửa và tiêu chảy, khiến người ta dễ dàng nhầm lẫn với các bệnh thông thường khác: dịch tả, kiết lỵ…
Sau năm 1.000, arsenic trở thành một loại vũ khí giết người hoàn hảo. Bột dễ dàng hòa tan trong rượu hay thức ăn mà nạn nhân không hề hay biết. Với liều lượng thích hợp, phải mất hàng giờ, nhiều ngày hay nhiều tháng triệu chứng mới xuất hiện, rất khó truy tìm dấu vết. Ngay cả khi bị nghi ngờ, độc chất cũng không thể phát hiện ra trong thi thể cho đến thế kỷ 19.
Nhưng arsenic cũng là một loại thần dược! Nhiều nền văn minh đã sử dụng nó trong nhiều thế kỷ để làm thuốc trị bệnh. Người Trung Quốc, người Hy Lạp, các nhà giả kim thuật thời Trung cổ dùng nó để chế tạo thuốc trường sinh. Các bác sĩ thế kỷ 18 dùng dung dịch arsenic để chữa các loại bệnh từ hen suyễn đến giang mai. Nó phổ biến trong các nước giàu có suốt nhiều thế kỷ.
Thần bí thời Trung cổ
Châu Âu thời Trung cổ rất mê tín. Sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, tiến bộ tri thức rất chậm chạp qua nhiều thế kỷ và niềm tin dân gian, đức tin tôn giáo, tư tưởng thần bí lên ngôi, khác xa với thế giới Ả Rập, nơi khoa học và toán học phát triển cực mạnh. Dựa vào văn bản của các triết gia Hy Lạp, nhiều nhà khoa học, nhà vật lý Hồi giáo thử nghiệm các loại độc chất và thuốc giải, viết ra những quyển bí kíp gây ảnh hưởng mạnh và làm cho khoa độc chất tiến bộ rất nhanh.
Mãi đến thế kỷ 13, nguồn tri thức phong phú này mới đến được châu Âu. Nhưng các giáo sĩ Kitô giáo chẳng làm gì khác hơn là sao chép y chang các văn bản cổ. Vì thế, châu Âu thời Trung cổ không biết gì nhiều hơn những bí kíp của Mithridates để phòng chống chất độc. Nhưng họ lại sợ nó hơn bao giờ hết. Chẳng có giải pháp khoa học nào để khắc chế nên nông dân, thương buôn và vua chúa quay sang những biện pháp mê tín thần bí.
Đá Bezoar là một khối rắn thức ăn không tiêu hóa hay sợi được tìm thấy trong bao tử thú vật bỏ vào trong nước uống để hóa giải mọi loại độc chất. Đá Bezoar rất phổ biến tại Ba Tư và các nước châu Á được bày bán tại châu Âu. Những cách trị độc khác là bùa, cốc chống độc cùng với chất khoáng để làm nôn mửa. Tại triều đình Trung Quốc và Triều Tiên, người ta dùng cây kim bạc để dò tìm chất độc trong thức ăn và nước uống. Nhưng “bá chủ” trong chống độc là chiếc sừng con kỳ lân (còn gọi là con dinh). Con vật huyền thoại chỉ có độc một cái sừng dài (mà ngày nay có lẽ là con kỳ lân biển) được xem là có thể phát hiện và chống được chất độc. Sừng kỳ lân cực kỳ quý giá, đắt gấp 10 lần vàng. Nó có mặt trong các triều đình trên khắp châu Âu để phòng chống độc dược. Tại Đan Mạch, nhiều thế hệ vua chúa ngồi trên chiếc ngai làm bằng sừng con vật huyền thoại này.
Sừng kỳ lân mất giá vào thời Phục hưng khi nghiên cứu khoa học bắt đầu bùng phát. Nhưng kiến thức phát triển cũng dẫn đến cách sử dụng độc chất nguy hiểm hơn. Châu Âu cuối cùng ra khỏi Thời kỳ Tăm tối do Giáo hội Công giáo thống trị, việc chế tạo các loại dung dịch trở thành một nghệ thuật. Giống như với các hình thức nghệ thuật khác trong thời Phục hưng, Ý là nơi dẫn đầu trong việc chế tạo thuốc độc!
Chất độc thời kỳ Phục hưng
Trên các đường phố của Rome, Florence, Venise, chất độc được pha chế ì xèo. Các nhà giả kim thuật bận rộn pha chế thuốc bổ để được trường sinh bất lão. Nhiều trường phái nghiên cứu bùng phát để hoàn hảo nghệ thuật đầu độc. Tại Venise có Hội thập nhân chuyên ký hợp đồng đẩu độc thuê. Tại Rome, có một gia đình chuyên về độc dược. Nhà Borgia không ngần ngại giết người để độc quyền cai trị Giáo hội Kitô giáo. Rodrigo Borgia (Giáo Hoàng Alexander VI) và con trai, Bá tước Cesare, cùng con gái Lucrecia, nổi tiếng vì đầu độc hàng chục hồng y, giám mục và cá các nhà quý tộc. Chứng kiến cảnh tượng này, đại sứ Venise đã viết: “Mỗi đêm đều phát hiện có 4-5 người bị giết chết. Các giám mục, giáo sĩ cao cấp và nhiều người khác… Cả thành Rome rúng động vì sợ hãi bị bá tước giết chết”.
Gia đình này thử nghiệm các loại độc cần, cà dược, phụ tử, mao địa hoàng, mã tiền… trên súc vật và người nghèo, cất giữ các lọ rượu độc dưới tầng hầm. Họ tìm ra được một công thức “bá đạo” gọi là cantarella vẫn còn là một bí mật cho đến hôm nay, dù rằng được phỏng đoán là một hỗn hợp arsenic với con bọ xít. Thủ đoạn của dòng họ Borgia là hòa chất độc trong rượu, mời thực khách uống. Khi trở về nhà, y sẽ chết trong vòng vài tuần hay tháng sau tùy theo liều lượng để xóa dấu vết. Thâm hiểm đến mức có người đời có câu thành ngữ: “Uống rượu của nhà Borgia”, có nghĩa là sẽ bị đột tử, hay chết không rõ lý do!
Nhưng nhà Borgia không phải là băng đảng duy nhất trứ danh dùng chất độc. Catherine de Medicis hay Nữ hoàng đen của nước Pháp cũng thử nhiều loại độc chất trên súc vật và tù nhân. Bà cất giữ hàng trăm loại rượu độc trong những căn hầm bí mật trong hoàng cung. Đến cuối thế kỷ 16, một trường phái độc chất của Pháp phổ biến lan tràn khắp thành phố Paris. Hợp chất arsenic được dùng để giành quyền thừa kế trong hàng ngàn gia đình quý tộc, đến nỗi được gọi là “bột kế thừa” (poudre de succession)!
Tình hình nghiêm trọng đến mức vua Louis XIV phải lập ra một tòa án chuyên điều tra các vụ giết người bằng chất độc ! Hàng trăm vụ án được đem ra xét xử. Nổi tiếng nhất là vụ Catherine Deshayes, biệt danh “Bà hàng xóm”. “Bà hàng xóm” chuyên pha trộn cà dược,thuốc phiện, thạch tín, phụ tử… làm thành độc chất bán cho các phụ nữ quý tộc muốn giành tài sản cho con hay giết chồng, hãm hại vợ bé… Kết thúc vụ án, có 36 người phải bị thiêu sống. Cuối cùng, nhà vua ra một chỉ dụ phạt tử hình những kẻ buôn bán arsenic và các loại độc chất khác.
Đến thế kỷ 17, một số quý bà dùng bột arsenic thoa lên mặt để tạo ra vẻ mặt xanh xao, yểu điệu. Một số khác dùng để giết chồng! Năm 1659, tại Rome, một mụ tên Hieronyma Spara cầm đầu một tổ chức bí mật tên Guilia Toffana, chuyên bán thuốc độc cho quý bà. Sản phẩm của mụ đã gây ra cái chết cho hơn 600 người, trong đó có 2 vị giáo hoàng và vô số các ông chồng. Chúng được nguy trang thành lọ mỹ phẩm mang tên “Dung dịch Toffana”. Chỉ cần nhễu vài giọt vào thức ăn đủ gây ra cái chết chắc chắn và không dấu vết.
Tại Anh, dưới thời Nữ hoàng Victoria, quý bà thích dùng độc dược nhiều hơn ra tòa ly dị chồng, do thị trường bảo hiểm bùng phát. Như vụ án Mary Ann Cotton giết chết 3 người chồng và nhiều đứa con để cướp tiền bảo hiểm đến nỗi Quốc hội Anh phải ra đạo luật cấm phụ nữ mua arsenic ! Nhưng chính khoa học, chứ không phải luật pháp, đã kết thúc thời đại vàng son của arsenic.
Năm 1836, một nhà hóa học người Anh tên James Marsh đã tìm ra phương pháp xét nghiệm arsenic trong tế bào con người. Ông mang ra thử trong vụ án một phụ nữ người Pháp đầu độc chồng bằng một chiếc bánh. Bà ta bị chứng minh là có tội. Từ đó, xét nghiệm Marsh được phổ biến rộng rãi khắp thế giới và trở thành một công cụ điều tra của pháp y.
Chất độc đi vào chiến tranh
Con người biết dùng độc chất trong chiến tranh từ hàng ngàn năm trước. Thổ dân Nam Mỹ dùng nhựa cây và nhái độc tẩm vào mũi tên. Bộ tộc Scythes vùng thảo nguyên Trung Á nổi tiếng với tên tẩm thuốc độc. Người Ấn Độ cũng dùng tên độc chiến đấu với Alexandre Đại đế. Người Trung Quốc, người Hy Lạp, người La Mã, Ba Tư, Mông Cổ đều biết dùng khí độc để đốt kẻ thù. Vào thế kỷ 7, đế quốc Byzance dùng lửa Hy Lạp, còn gọi là “napalm thời cổ” trong các trận chiến. Hóa chất này được thả nổi trên mặt nước để đốt cháy thuyền gỗ của kẻ thù.
Thời đại công nghiệp khiến cho các nước tạo ra một kho dự trữ chất độc khổng lồ dành cho chiến tranh. Sáng ngày 22.4.1915, quân Đức thả ra 168 tấn khí chlore tại mặt trận Ypres thuộc Bỉ. Một sĩ quan Canada kể lại: “Đó là một bức tường khí chết người. Nó từ từ biến lá trên cây, hoa trên cành và cỏ trên mặt đất thành một màu trắng xóa. Gió mang hơi màu vàng xanh này đến phòng tuyến quân Đồng minh, đang chờ đợi lệnh khai hỏa. Họ cảm thấy bỏng rát mắt và cổ họng. Đau đớn khủng khiếp, rồi mù mắt và cảm giác nghẹt thở. Hơn 5.000 người ngã gục tại chỗ.
Khí độc này do một nhà hóa học người Đức gốc Do Thái phát minh: Fritz Haber. Ông đoạt giải Nobel Hóa học năm 1918 vì tổng hợp được ammoniac từ nitrogen trong không khí, dẫn đến việc sản xuất hàng loạt phân bón, tạo ra cuộc cách mạng trong nông nghiệp nuôi sống được hàng tỉ con người. Nhưng trong Thế chiến thứ nhất, Haber dùng thiên tài của mình để giết người hàng loạt, với câu nói để đời: “Trong thời bình, nhà khoa học là của nhân loại. Trong chiến tranh hắn là người của quê hương”. Ông còn phát minh ra 2 loại khí độc khác: mustard và phosgene. Đến cuối Thế chiến thứ nhất, có khoảng 1,2 triệu người chết và bị thương tật vì vũ khí hóa học. Haber được tôn phong anh hùng tại Berlin và ông tổ chức một lễ hội ăn mừng sau trận Ypres 1 tháng. Nhưng vợ ông, nhà hóa học nổi tiếng Clara Immerwahr, lại xem đó là một hành vi man rợ, phá vỡ mọi quy luật đạo đức. Trong đêm lễ hội đó, bà đã tự bắn vào tim mình và qua đời.
Khi lên cầm quyền, Hitler đã truy sát Haber vì nguồn gốc Do Thái. Ông bỏ trốn khỏi Đức vào năm 1933 và chết vì bệnh đau tim khi lưu vong. Phòng thí nghiệm của ông được Đức Quốc xã dùng làm nơi chế tạo khí độc Zyklon B dùng để giết chết hàng triệu người Do Thái, trong đó có cả gia đình, bà con dòng họ của Haber. Đúng là “ác giả ác báo”!
Giết người trong Chiến tranh lạnh
Độc chất còn đóng một vai trò khác ngoài những cuộc chiến tranh trong thế kỷ 20: viên thuốc tự sát. Hợp chất cyanide ở dạng bột là một trong những viên thuốc giết người nhanh và hiệu quả nhất. Cyanide được biết đến từ thời cổ, nhưng hợp chất hydrogen cyanide chỉ mới được tinh lọc từ thế kỷ 18 và gây ra chú ý đặc biệt vì hiệu quả của nó. Đó là viên thuốc được lựa chọn để tự sát trong Thế chiến thứ hai và Chiến tranh lạnh. Hitler và vợ là Eva Braun dùng nó để tự sát trong hầm ngầm tại Berlin. Hermann Goering cũng cắn viên cyanide giấu trong miệng để tự sát khi bị xét xử trước tòa án Nuremberg. CIA và KGB cũng cho các điệp viên của mình dùng nó để khỏi bị kẻ thù tra tấn khi bị bắt. Viên thuốc được giấu trong gọng kiếng hay cây bút. Chỉ cần nhai nuốt là xong đời!
Nhà thần bí lừng danh nước Nga Rasputin cũng bị hoàng thân Alexis đầu độc bằng cyanide để trừ khử thái độ lộng quyền với hoàng hậu, nhưng lại không chết. Người ta phải dùng đến súng bắn vào đầu mới hạ sát được ông ta. Vào cuối thập niên 1950, một điệp viên KGB dùng khẩu súng bắn ra hơi độc cyanide để ám sát hai lãnh đạo quốc gia Ukraine. Năm 1978, potassium cyanide được trộn vào ly nước trái cây trong cuộc tự sát tập thể của một giáo phái tại Jonestown ở Guyana.
Trong những năm gần đây xuất hiện loại độc chất cao thuộc nhóm organophosphate như khí sarin. Ra đời trong Thế chiến thứ hai, nó được sử dụng bởi các nhóm khủng bố, những nhà độc tài trên khắp thế giới, dẫn đến những âm mưu chính trị đen tối đã từng làm cho vua Mithridates mất ngủ suốt đêm cách nay hơn 2.000 năm.