Tuy nhiên, điều may mắn là chúng ta còn có biển. Biển không những cho chúng ta nguồn dự trữ lương thực bổ sung dồi dào, biển còn cho chúng ta nguồn tài nguyên và năng lượng quý giá thiết yếu cho tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Dầu khí là bằng chứng cho thấy sự giàu có của thềm lục địa ViệtNam. Theo tài liệu của Tổng công ty Dầu khí, tổng trữ lượng dự báo địa chất của thềm lục địa Việt Nam là khoảng 10 tỉ tấn dầu, trữ lượng khai thác khoảng 4-5 tỉ tấn, trữ lượng khí đồng hành khoảng 200-300 tỉ m3. Đó chính là chỗ dựa của tương lai công nghiệp Việt Nam, buộc chúng ta phải có nhận thức rõ ràng hơn về mối quan hệ gắn bó của biển với lợi ích sinh tử lâu dài của Tổ quốc. Bốn ngàn năm trước, để giúp nhân dân an toàn khai thác biển, vua Hùng đã chỉ cho kỹ thuật vẽ mình. Ngày nay, trong tình hình mới, chúng ta vừa khai thác biển vừa phải bảo vệ biển. Tình hình mới đặt ra những yêu cầu mới. Chúng ta không chỉ cần công nghệ cao hơn, phương tiện hiện đại tối tân hơn, con người được trang bị kiến thức kỹ năng cao hơn mà còn cần đến ý chí kiên định của toàn thể cộng đồng dân tộc trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh hải, thềm lục địa, bảo vệ an toàn cho ngư dân, cho những người khai thác khoáng sản và dầu mỏ trên thềm lục địa của chúng ta. Cần rút ra được bài học từ sai lầm trong quá khứ. Một trăm năm mươi năm trước, vua Tự Đức, quên rằng Việt Nam là một quốc gia biển, đã bỏ ngoài tai những kiến nghị phát triển lực lượng hải quân và thương thuyền của Nguyễn Trường Tộ, tiếp tục theo đuổi chính sách bế quan tỏa cảng, không giao lưu với phương Tây, ôm chặt ảo tưởng về sự an toàn của vương triều đằng sau các bức tường thành khép kín. Chính sách đóng cửa một mặt làm nước ta mất đi một lực lượng hải quân hùng mạnh với những chiến thuyền tuy nhỏ nhưng trang bị hiện đại từng tung hoành ở Biển Đông, đánh bại các hạm đội phương Tây trong suốt hai thế kỷ từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh đến thời Quang Trung hoàng đế, mặt khác làm tan rã giấc mơ – và cơ hội – có một đội thương thuyền lớn ngang dọc trên các đại dương. Cái giá phải trả quá đắt: một trăm năm mất nước và một trăm năm lạc hậu về công nghệ đóng tàu. Gần hai mươi năm trước, ông Lưu Văn Lợi, nguyên Trưởng ban Biên giới hải đảo của Chính phủ cũng đã đề xuất rằng thế đi lên của nước ta là phải dựa trên hai chân: đất liền và biển. Ông kêu gọi “cần có một kế hoạch hoàn chỉnh phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh đất nước, vạch chiến lược biển cũng như vạch một chiến lược cho đất liền”.
Một chiến lược biển lâu dài, đó là điều hết sức sinh tử cho sự cường thịnh của tổ quốc, nhưng để hoàn thành được các mục tiêu chiến lược cho từng giai đoạn lịch sử, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng, ngay từ hôm nay, nguồn tài chính cộng đồng cho chiến lược biển. Chúng ta cần có một Quỹ Biển Đông. Thử hình dung mỗi người dân Việt mỗi ngày dành dụm đóng góp vào Quỹ Biển Đông chỉ một ngàn đồng, sau năm năm, Quỹ Biển Đông sẽ có được một số tiền không nhỏ là trên 150 ngàn tỉ đồng. Với số tiền này, cùng với Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam, chắc chắn Quỹ Biển Đông sẽ chung sức làm được nhiều việc: huấn luyện ngư dân và đào tạo đội ngũ khai thác tài nguyên biển, trang bị máy móc, thiết bị hiện đại cho đánh bắt và khai thác tài nguyên trên biển và trong thềm lục địa, tổ chức nghiên cứu biển, thềm lục địa, xây dựng một đội thương thuyền Việt Nam xứng đáng với tầm cỡ một quốc gia biển, phát triển lực lượng hải quân, không quân cùng hệ thống phòng thủ và bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải trên các hải đảo và ven biển, bảo vệ môi trường và sự đa dạng sinh học biển… Nhưng điều quan trọng của Quỹ Biển Đông không chỉ là nguồn tài chính. Sự ra đời của Quỹ Biển Đông khẳng định sự đoàn kết, thống nhất ý chí của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt cả trong nước lẫn ngoài nước trong quyết tâm bảo vệ và phát triển đất nước, tiến đến một tương lai cường thịnh.