Theo kinh Đại bản như ý, Quan Thế Âm Bồ Tát có 8 dạng: Viên Mãn Nguyện Minh Vương Bồ Tát, Bạch Y Tự Tại Bồ Tát, Tứ Diện Quan Âm, Cát La Sát Nữ, Tỳ – Câu – Chi, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đà La Quan Âm (tức Chuẩn Đề Bồ tát) và Mã Đầu La Sát.
Mã Đầu La Sát là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm, mình người đầu ngựa. Avalokitesvara (Quan Thế Âm Bồ tát) của Phật giáo Đại thừa không phân biệt giới tính vì ngài có thể hóa ra nữ hoặc nam. Phật giáo thường gọi vị Bồ Tát này là “Quan Âm Đại sĩ”, một hóa thân của Quan Âm. Quan Âm thường là nữ, nhưng gọi là Sĩ tức nam, do tính chất trung tính này nên gọi là “Thái Giám” (Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Đình Nam Bộ xưa và nay).
Bạch Mã Thái Giám là ai?
Do cứu độ chúng sanh nên Bồ tát Quan Thế Âm phải ở lại thế gian và hóa thân thành nhiều hình tướng khác nhau, cả nam và nữ. Con ngựa Bahala cũng không có giới tính. Dựa vào đặc tính này, triều Nguyễn đã dùng từ Thái Giám để gắn cho vị thần Bạch Mã đức cao vọng trọng.
Đạo Bàlamôn cũng có một vị thần tên “Kalkyavatara”, hóa thân của thần Vishnu, có dạng mình người đầu ngựa. Trong truyện Tiền thân Đức Phật cũng có câu chuyện về con ngựa Balaha. Có 800 người lái buôn đường biển đi lạc đến hòn đảo của các nữ nhân ăn thịt người. Khi gặp các lái buôn này thì các nữ nhân buộc phải kết hôn với họ. Một hôm các anh lái buôn nhớ nhà và cầu nguyện Đức Phật cứu giúp. Đức Phật hóa ra con ngựa thần và bảo họ nắm vào cổ, vào bờm, vào lông, đuôi… Trước khi bay qua biển, Ngài dặn họ không được luyến tiếc những lạc thú mà họ đã gặp trên đảo. Nhưng do thương nhớ vợ con, quay lại nhìn và bị rơi xuống biển. Chỉ có một người nhớ lời Phật dặn, làm chủ được mình, nên sống sót và về làm vua Ấn Độ.
Tạ Chí Đại Trường trong Thần, người và đất Việt cho biết khối tượng Neak Pean (Angkor Wat, Campuchia) vào cuối thế kỷ XII – đầu thế kỷ XIII diễn tả sự tích này với cảnh một đám người tranh nhau bám vào mình ngựa thần. Từ đó Mã Đầu La Sát hay Bạch Mã Thái Giám trở thành thần phù hộ giới thương buôn đường biển và cả thương buôn đường bộ trên đường tơ lụa. Vì Bạch Mã Thái Giám là hóa thân của Bồ tát nên được nhà Nguyễn phong “Dương Uy Ngự Vũ Bảo Chướng Kiện Thuận Hòa Nhu Hàm Quang Thượng đẳng thần”, Bạch Mã Thái Giám là vị thần của dân dã.
- Xem thêm: Linh Sơn Thánh Mẫu ở Tây Ninh
Tại chùa Quan Âm (Quan Âm Phật tự, Minh Hương Phật tự) ở Hội An, trên bàn thờ có một đồ án trang trí hình con ngựa có cánh đang sải bước/ bay trên những đám mây hình cánh sen. Đó là dấu vết ngựa thần Balaha hóa thân của Quan Thế Âm Bồ tát hiện còn ở nước ta (Trần Văn An, Biển đảo trong văn hóa, văn nghệ dân gian Hội An).
Theo Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, bộ kinh chữ Phạn của Ấn Độ về cuộc đời của Avalokitesvara (Quan Thế Âm Bồ tát) có một đoạn kể về tiền kiếp của Bồ tát Quan Thế Âm lúc đó là con ngựa thần màu trắng có cánh tên là Balaha đã giải cứu hoàng tử Sinhgala, tiền thân Phật Thích Ca khi ngài cùng các khách thương bị nạn trên biển. Dấu vết muộn hơn, thì vị Bồ tát kia là Avalokitesvara. Theo Tạ Chí Đại Trường, Quan Âm của Phật giáo Đại thừa, chính là Quan Âm Nam Hải của những người dân qua lại biển Đông cầu cứu tai qua nạn khỏi.
Người Việt không tiếp thu trực tiếp hình thức thờ Bạch Mã từ Ấn Độ mà thông qua sự giao thương bằng đường biển của người Chăm để mang tín ngưỡng này về đất nước của họ. Một bằng chứng nữa là Bạch Mã Thái Giám được thờ phổ biến ở các vùng biển Nam Trung bộ và ở Nam bộ là do những di dân miền Trung mang vào từ địa bàn cư trú cũ của người Chăm.
Văn tế trong các đình làng miền Trung, vị thần này được nêu với danh hiệu “Thái Giám Bạch Mã Lợi Vật chi thần” cho thấy tính chất “sinh lợi” trong hoạt động giao thương khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ.
Ở Phú Yên, thần Bạch Mã Thái Giám được ngư dân xem là hiện thân của Phật Bà Quan Âm, “vì thương người hóa thành con ngựa trắng để cứu giúp những người đi buôn, những người đánh bắt cá trên biển gặp nạn, như truyền thuyết Phật Bà hóa thành cá Voi” (Lê Thế Vịnh, Phạm Hùng Thoan, Văn hóa cư dân ven biển Phú Yên).
Bạch Mã Thái Giám thuộc bậc thượng đẳng thần, được tòng tự trong đình làng, về phẩm trật cao hơn Thành Hoàng, nhưng ở Nam bộ lại quan niệm là vật cưỡi của Thành Hoàng.
Có tác giả lại tách bạch giữa Bạch Mã và Thái Giám khi cho rằng “Bạch Mã thực hiện việc di chuyển, Thái Giám trông coi việc trong cung vua. Bạch Mã Thái Giám là những vị giúp việc cho Thần”.
Tạ Chí Đại Trường giải thích vị thần này có nhiều tên gọi khác nhau là do sự xáo trộn trong ngữ pháp Hán Việt nên gọi Thái Giám Bạch Mã, hoặc kiêng tên chỉ gọi là Thái Giám như vị thần thờ ở Quảng Ngãi.
Như vậy, danh xưng Bạch Mã Thái Giám là từ hình tượng con ngựa trung tính để chỉ vị thần biển có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ.
Thờ Bạch Mã Thái Giám ở các địa phương
Thần Bạch Mã được thờ ở nhiều làng xã trên địa bàn Đà Nẵng với nhiều sự tích. Người dân làng Nam Thọ (quận Sơn Trà) cho rằng miếu Bạch Mã ở bãi Nồm dưới chân núi Sơn Trà thờ vị thần núi Long Đỗ, hiệu Quảng Lợi Bạch Mã Đại Vương, sắc phong ngày 2 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 và ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33. Sắc phong Bạch Mã Thái Giám có mỹ tự kèm theo là “Lợi Vật, Kiện Thuận, Hòa Nhu, Đoan Túc” như sắc phong làng Xuân Lộc. Làng Phú Thượng cũng được phong tặng danh hiệu như làng Phú Lộc (Hồ Tấn Tuấn, Di sản Hán Nôm tại Đà Nẵng).
Khu vực Đà Nẵng có khá nhiều sắc phong của triều Nguyễn cho Bạch Mã Thái Giám: thôn Hòa Mỹ (phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu), xã Hóa Khuê Đông (phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn), xã Nam An – Nam Thọ (phường Thọ Quang, quận Sơn Trà), xã Phú Thượng (xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang), xã Phước Sơn – Phước Thuận (xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang), xã Quá Giản (Quá Giáng, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang), xã Thạc Giản (Thạc Gián, phường Chín Gián, quận Thanh Khê), xã Xuân Lộc (xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang) (Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toán, Sắc phong ở Đà Nẵng).
- Xem thêm: Tản mạn tín ngưỡng dân gian
Từ miền núi đến trung du, châu thổ cửa sông ven biển đều có tục thờ thần Bạch Mã. Tại miếu Hội Đồng tỉnh thần Bạch Mã có sắc phong khá sớm vào năm 1824. Thần Bạch Mã thường được thờ cùng với Đại Càn Tứ Vị Thánh Nương, Thiên Y Ana Chúa Ngọc và một số vị thần khác tại đình làng. Một số địa phương gọi những ngôi miếu riêng thờ vị thần này là miếu ông Thái Giám. Ở Thanh Hà có 2 miếu Bạch Mã Thái Giám ở Nam Diêu và Thanh Chiêm, Bàu Súng. Cẩm Phô trước đây cũng có 2 miếu Thái Giám, cúng mỗi năm 2 kỳ vào ngày 13.1 và 11.8 âm lịch.
Theo thống kê của Viện Viễn Đông Bác Cổ (1943), ở Hội An (Quảng Nam) có 8/11 làng có sắc phong thần Bạch Mã với 51 lá sắc. Cụ thể là: phường Cẩm Phô (6 sắc), phường Minh Hương (5), xã An Mỹ (5), xã Thanh Đông (4), xã Sơn Phô (5), phường Điển Hội (8), xã Thanh Hà (8), xã Đế Võng (7), miếu Hội đồng tỉnh ở Cẩm Phô (3).
Trong nhóm thứ nhất các sắc phong Bạch Mã ở Hội An, vị thần này có danh hiệu đầy đủ là Lợi Vật, Kiên Thuận, Hòa Nhu, Đoan Túc, Hàm Quang, Dực Bảo Trung Hưng Thái Giám Bạch Mã, Thượng đẳng thần. Phẩm trật Thượng đẳng thần đến năm Khải Định 9 (1924) mới được phong và đến năm này thì mới có danh hiệu Thái Giám.
Ở nhóm thứ hai, thì vào thời Tự Đức (1852), Bạch Mã đã được phong Thượng đẳng thần và có các mỹ tự là Dương Uy, Ngự Vũ, Bảo Chướng, Kiên Thuận, Hòa Nhu, Hàm Quang. Các đời sau chỉ gia phong thêm mỹ tự Dực Bảo Trung Hưng để có tên đầy đủ là Dương Uy, Ngự Vũ, Bảo Chướng, Kiên Thuận, Hòa Nhu, Hàm Quang Dực Bảo Trung Hưng Thái Giám Bạch Mã Thượng đẳng thần. Đến thời Khải Định danh hiệu Thái Giám mới được sử dụng kèm (Trần Văn An, Sđd).
Dinh Lý Nhân (miếu chủ Thơ) thuộc thôn Tây (xã An Hải, huyện Lý Sơn, Quảng Ngãi) nằm ngay sát bờ biển. Lúc đầu, dinh được làm bằng tranh tre, thờ thần Bạch thố Kim Tinh (Ngũ Hành), sau này do sự linh hiển của Bà, nhân dân đã góp tiền xây dựng lại vào đầu thế kỷ XX. Trong dinh đặt các ban thờ Tam phủ, Bạch Mã Thái Giám và Bạch thố Kim tinh. Dinh Tam Tòa ở thôn Tây, xây dưới triều vua Gia Long, thờ Thủy Long Thần Nữ, Bạch Mã Thái Giám và Hồng Nương Chúa Động (Trương Thanh Hùng, Phan Đình Độ, Văn hóa dân gian huyện đảo Phú Quốc và Lý Sơn).
Các làng ven biển Phú Yên có nhiều cơ sở thờ tự thần Bạch Mã Thái Giám, được các vua triều Nguyễn ban nhiều sắc phong như ở các cơ sở tín ngưỡng: lẫm Quy Hậu (huyện Phú Hòa), đình Phong Niên (xã Hòa Thắng, huyện Phú Hòa), đình Mỹ Thành (đình Tây Phú, xã Tây Phú, huyện Phú Hòa, 4 sắc phong chung với thần Thổ Địa), đình Ngọc Lãng (xã Bình Ngọc), đình Đông Bình (xã Đông Bình), đình Bình Nhạn (phường 1, TP Tuy Hòa), đình Vĩnh Xuân, đình Vinh Ba, lăng Ông ngư nghiệp Đông Tác (phường Phú Đông, TP Tuy Hòa) (Nguyễn Đình Chúc, Đình – miếu – lẫm – lăng ở Phú Yên).
Khu vực Vũng Rô, Đèo Cả, Đá Bia thuộc Phú Yên, các đình miếu đều thờ Bạch Mã với sắc phong Bạch Mã Thái Giám tôn thần, nhất là ở các đình làng. Một số đình ở Khánh Hòa có sắc phong như đình Phương Sài, đình Đắc Lộc (ngày 8 tháng 11 năm Tự Đức thứ 3, 1850), đình Vạn Thạnh (Nha Trang); đình Phú Lộc (huyện Diên Khánh).
Tại các di tích trên đảo Phú Quý (Bình Thuận) thường phối tự các vị thần như Trấn Bắc quân Đô đốc phủ, Quan Thánh đế quân, Bạch Mã Thái Giám. Trên đảo có 28 di tích có giá trị tiêu biểu gồm các đình, chùa, vạn, đền thờ, mộ, trong đó có 2 đền thờ Bạch Mã Thái Giám ở làng Quý Thạnh (Ngũ Phụng) và làng An Hòa (Ngũ Phụng). Đình Phú Mỹ trong khám thờ 5 sắc phong của Bạch Mã Thái Giám, sắc bị rách bồi lại bằng giấy bóng mờ. Hai ngôi đền thờ Bạch Mã ở làng Quý Thạnh và Phú An ở xã Ngũ Phụng do người dân Phú Quý mang từ cố hương vào khi đến tiếp quản và khai lập cuộc sống trên đảo Phú Quý.
Đền thờ Quan Thánh ở xã Ngũ Phụng, nằm cạnh đền thờ Thầy Sài Nại, còn lưu giữ 5 sắc phong của các vua triều Nguyễn ban cho thần Bạch Mã Thái Giám. Tuy nhiên, đền thờ chỉ lưu giữ các sắc phong của Bạch Mã Thái Giám. Trong đó có 3 sắc phong cấp cho làng Hương Lăng, 1 sắc cấp cho làng Tuy Lăng và 1 sắc cấp cho làng Quý Thạnh.
Đền thờ Thái Giám tọa lạc tại làng An Hòa (xã Ngũ Phụng), xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII, gắn với quá trình di cư của các bộ phận cư dân vùng Ngũ Quảng đến đảo Phú Quý khai khẩn đất đai lập làng An Hòa. Chánh điện có 3 khám thờ: khám giữa thờ thần Thái Giám, khám hữu thờ Hữu ban và khám tả thờ Tả ban. Khám thờ Bạch Mã Thái Giám có kích thước 1,8m x 1,5m x 2,1m. Trên khám chạm chữ “Thần”, phía trước có 2 bạch mã cao 60cm, dài 50cm. Lọng khám xung quanh chạm nổi hình tượng lưỡng long tranh châu, chim phụng, rùa và hoa lá. Tại đây còn lưu giữ 5 sắc phong của các vua triều Nguyễn cho Bạch Mã Thái Giám của làng Phú Ninh, được cất giữ thờ cúng tại đình Phú Mỹ vào các năm Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định.
Hàng năm, tại đền Thái Giám diễn ra hai kỳ tế lễ vào trung tuần tháng giêng và tháng bảy âm lịch, có tổ chức rước sắc phong từ đình Phú Mỹ, thu hút đông đảo người dân tham gia. Các bước thực hiện tế lễ và lễ vật dâng cúng về cơ bản cũng tương tự như các đền thờ, lăng vạn, đình làng khác trên đảo (Nguyễn Xuân Lý, Di sản văn hóa Phú Quý).
- Xem thêm: Thương nhớ đình làng
Nhiều đình ở Biên Hòa có thờ Bạch Mã Thái Giám như đình Thành Hưng (xã Hiệp Hòa), đình Bình Trước (phường Thống Nhất), đình Bình Thiền (phường Quang Vinh)… Duy nhất đình Thành Hưng ở Cù lao Phố (Biên Hòa) thờ Bạch Mã Thái Giám, trên bàn thờ có bốn chữ “Bạch Mã Thái Giám”, được đặt bên vách hông của chánh điện. Một số đình lại tách riêng thành hai bàn thờ riêng biệt, bài trí đối lập nhau trong chánh điện, ví dụ như đình Tân Lân (phường Hòa Bình). Có đình không có bàn thờ Bạch Mã Thái Giám mà chỉ có tượng của Bạch Mã được đặt trong chánh điện. Chưa rõ việc tách bạch Bạch Mã, Thái Giám bắt nguồn từ đâu nhưng có lẽ do hiểu theo ngôn xưng Bạch Mã, Thái Giám là hai đối tượng: Bạch Mã (ngựa trắng) và Thái Giám (nhân vật bị mất chức năng đàn ông để hầu cận phục vụ trong cung đình vua chúa trước đây) – (Phan Đình Dũng, Cơ sở tín ngưỡng và lễ hội truyền thống ở Biên Hòa).
Nhiều đình ở Thành phố Hồ Chí Minh có thờ Bạch Mã Thái Giám với những danh hiệu khác nhau, thậm chí các đình trong cùng 1 xã danh hiệu cũng khác nhau, như đình Ích Phú, đình Bình Khánh (quận 2), đình Tăng Phú (quận 9), đình Bình Lý, đình Thới Thuận, đình Bình Xuân (huyện Hóc Môn), đình Long Kiểng (huyện Nhà Bè), đình Quy Đức, đình Thừa Phước, đình Tri Hòa (huyện Bình Chánh) thờ Bạch Mã; đình Nam Chơn (quận 1), đình Bình Yên (quận 5), đình Bình Thái (quận 9), đình An Hội (quận Gò Vấp) thờ Bạch Mã, Thái Giám; đình Tân Kiểng, đình An Bình (quận 5), đình Bình Tiên, đình Bình Tây, đình Phú Hòa (quận 6), đình Khánh Bình (quận 8), đình Chí Hòa (quận 10), đình Tân Thới Tam, đình Tam Đông, đình Thới Đông (huyện Hóc Môn), đình Thới Hòa (đình Long Thới, huyện Nhà Bè), đình Tân An Hội, đình Mỹ Thạnh, đình Phước Vĩnh Ninh (đình Bà Giả), đình Phú Hòa Đông (huyện Củ Chi), đình Bình Chánh, đình Long Bình, đình Bình Điền, đình Bình Lộc, đình Phú Nhiêu, đình Đa Phước, đình Phục Đức, đình Mỹ Phú (đình Hòa Thới) (huyện Bình Chánh) thờ Bạch Mã Thái Giám (Hồ Tường, Nguyễn Hữu Thế, Đình ở thành phố Hồ Chí Minh).
Ngoài ra, Bạch Mã Thái Giám thường được phối tự với Ngũ Hành Nương Nương như ở các miếu: 1A, Võ Trường Toản (phường 15, quận 5), 72, đường số 13; cầu 38, Phạm Thế Hiển (quận 8), 1107/10, Phạm Thế Hiển (phường 5, quận 8); 50/9C, bến Phú Định (quận 8); ấp 1 (xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh) – (Võ Thanh Bằng, Tín ngưỡng dân gian ở thành phố Hồ Chí Minh).
Tại Bình Dương, Bạch Mã Thái Giám được thờ trong một số đình. Đình Chánh Phú Hòa (thị xã Bến Cát), miếu Bạch Mã Thái Giám nằm kế miếu Thủy Long Thần Nữ ở trước đình. Ở các đình Phước Hòa (huyện Phú Giáo), đình Tân Thới (thị xã Thuận An), đình Tân Lương (thị xã Tân Uyên), miếu Bạch Mã Thái Giám nằm cùng với miếu Thần Nông trước đình. Trước đình Tân An (TP Thủ Dầu Một), phía bên trái, có miếu thờ Bạch Mã và Ngũ phương Thổ địa. Riêng đình Tân Ninh (thị xã Dĩ An) thì Bạch Mã Thái Giám được thờ trong chính điện. Án thờ Thái Giám và Bạch Mã ở đình Bình An (thị xã Dĩ An) nằm ở hai bên bàn thờ Bác Hồ (có 2 con ngựa trắng) đặt sau bàn thờ Hội đồng nội. Miếu thờ Thái Giám được đặt trước đình Thới Hòa – Tân Định (huyện Bến Cát), đối diện miếu thờ Sơn Quân.
Bạch Mã Thái Giám được thờ phổ biến ở Mỹ Tho, vùng Gò Công có lẽ là nơi tín ngưỡng Bạch Mã Thái Giám mạnh nhất, được sắc phong của nhà Nguyễn, mang dấu ấn đầu tiên của một dạng tín ngưỡng được đem từ miền Trung vào. Riêng vùng Gò Công có nhiều miếu thờ Bạch Mã Thái Giám được sắc phong từ thời Tự Đức.
Ở lăng ông Vàm Láng (huyện Gò Công Đông, Tiền Giang), ngoài bàn thờ ông Nam Hải còn có các bàn thờ Tả ban, Hữu ban, Tiên sư, Tiền hiền, Ngũ Hành, Lang Lại Đại tướng quân (rái cá), Bạch Mã tôn thần (ngựa trắng). Theo truyền thuyết địa phương, rái cá và ngựa trắng đã từng theo giúp Nguyễn Ánh trong những năm bôn ba ở vùng đất Nam bộ.
Trong miếu Bà Chúa Xứ ở Mỹ Long (huyện Duyên Hải, Trà Vinh), cốt tượng Bạch Mã được đặt giữa gian thờ Chúa Xứ Nguyễn Nhung và Thượng Động Cố Hỷ. Ngoài sân, trước miếu cũng có cốt tượng Bạch Mã, đối diện là tượng Thanh Long với câu đối “Tây hồi dương Bạch Mã/ Đông xuất hiển Thanh Long”. Như vậy, Bạch Mã ở đây được xem là phương tiện, vị thần hầu cận, được tòng tự cùng với Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Động, Thủy Long Thần Nữ (Trần Dũng, Đặng Tấn Đức, Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Trà Vinh).
Trong các ngôi đình ở Bạc Liêu, phía bên trái sân đình thường có miếu thờ Bạch Mã thái giám, “là loại ngựa thần có lông trắng, phục vụ việc đi lại cho các thần linh của đình”. Thần Bạch Mã cũng có mặt ở miếu Phước Hưng, làng Vĩnh Phước (Bạc Liêu).
Ở Nam bộ, Bạch Mã Thái Giám không chỉ được thờ trong các đình làng, mà còn được thờ ở nhiều miếu khác nhau.
Bạch Mã Thái Giám là vị thần biển ở miền Trung có nguồn gốc từ Ấn Độ, do các thương nhân Champa truyền vào nước ta. Tín ngưỡng này là dấu vết của sự giao lưu văn hóa Việt-Ấn thông qua “cầu nối” văn hóa Chăm, nó phản ánh các hoạt động lịch sử giao thương hàng hải một thời. Tục thờ Bạch Mã Thái Giám đã có từ trước đó, sau này vua Gia Long (1824) cho đến vua Khải Định (1924) đã ban một loạt sắc phong cho vị thần này như một sự công nhận mức độ hội nhập sâu rộng vào thần điện Việt. Bạch Mã Thái Giám được thờ tự trải dài ở ven biển và hải đảo, từ Huế vào đến Nam bộ, trong những cơ sở thờ tự khác nhau (miếu, đình, đền, lẫm, lăng…) hoặc phối tự, điều đó cho thấy sức mạnh của loại hình tín ngưỡng này trong tâm thức dân gian. Sự nhập nhằng về thần hiệu (Bạch Mã; Thái Giám; Bạch Mã Thái Giám; Thái Giám Bạch Mã) thể hiện vết mờ về nguồn gốc ban đầu của vị thần biển này.