Theo số liệu thống kê, Việt Nam hiện có 10,9 triệu hộ chăn nuôi gà vịt, 4 triệu hộ chăn nuôi heo và khoảng 2,5 triệu hộ chăn nuôi bò, tổng cộng là gần 18 triệu hộ. Về số lượng được xem là nhiều, nhưng về chất lượng quả thật rất đáng lo nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Ngành chăn nuôi Việt Nam có nhược điểm là giá thành cao do phải nhập khẩu thức ăn chăn nuôi với tỷ trọng lớn. Chẳng hạn trong bảy tháng đầu năm 2015, chúng ta đã nhập khẩu đến trên 4 tỉ USD thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu. Ngoài ra, phần lớn quy mô chăn nuôi theo hộ gia đình quá nhỏ bé, nên không có điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại và khó bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đã có tiên liệu về những thách thức của ngành chăn nuôi Việt Nam do không thể cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập. Điều này cũng dễ hiểu khi năng suất về chăn nuôi ở Việt Nam chỉ bằng 25% – 30% của thế giới, những nguyên vật liệu cơ bản, như bắp và đậu nành là hai nguyên liệu chính sản xuất thức ăn chăn nuôi, đều nhập khẩu từ nước ngoài. Kể cả con giống hay những chất phụ gia, thuốc thú y… cũng đều phải nhập khẩu nên giá thành chăn nuôi Việt Nam gần như cao nhất thế giới. Tính cạnh tranh hầu như không có và khi hội nhập sẽ thiệt hại rất nặng nề.
Muôn vàn khó khăn
Hồi năm ngoái, Việt Nam nhập khẩu 150.000 con bò Úc để phục vụ tiêu dùng, nhưng chỉ trong ba tháng đầu năm 2015 đã nhập khẩu tới 115.000 trâu bò.
Về sản phẩm thịt, tính từ đầu năm nay, Việt Nam đã nhập khẩu 93.000 tấn thịt trâu, bò, dê, cừu và gà. Riêng đùi gà đông lạnh nhập từ Mỹ là hơn 45.000 tấn với giá bán ra quá rẻ so với đùi gà công nghiệp nội địa, đã khiến người chăn nuôi trong nước lao đao.
Ngoài khó khăn do bị hàng nhập cạnh tranh, việc chăn nuôi không hề có triển vọng. Nuôi bò thì không có đồng cỏ lớn, việc tận dụng cỏ khô cho năng suất thịt thấp. Thịt heo thì sẽ phải cạnh tranh không chỉ từ Mỹ mà sắp tới sẽ là châu Âu. Chỉ một số ít người nuôi heo theo phương thức vườn-ao-chuồng (VAC) kết hợp trồng trọt, nuôi thủy sản và nuôi heo may ra mới có giá thành cạnh tranh.
Chăn nuôi gà thì sẽ chỉ tồn tại những trại nuôi gà ta, gà đồi, gà tam hoàng vì không phải cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập. Còn nuôi gà công nghiệp thì câu chuyện đùi gà Mỹ nhập khẩu với giá chưa tới 1 USD/kg đã là thí dụ quá rõ ràng. Sản phẩm của Mỹ vừa rẻ vừa được xác định chất lượng tốt và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trong tình hình như vậy, người chăn nuôi gà muốn tồn tại phải liên kết với các công ty lớn và đầu tư trại nuôi hiện đại.
Người chăn nuôi phần lớn là nông dân, lấy công làm lời, vậy mà vẫn lỗ. Điều này không khó giải thích. Trước tiên là chi phí từ khi nuôi con giống đến xuất chuồng trại đều tùy thuộc vào thức ăn gia súc. Giá thức ăn gia súc lại do các công ty lớn trong lẫn ngoài nước chi phối và thường tăng giá tùy tiện, có năm tăng đến bảy lần, đẩy giá thành sản phẩm chăn nuôi lên cao. Trong khi đó sự cạnh tranh trên thị trường rất gay gắt khiến người chăn nuôi bị kẹp giữa hai gọng kềm. Khi đồng vốn tiêu hao dần thì chỉ còn một cách tồn tại là chấp nhận nuôi gia công cho các công ty lớn của nước ngoài. Có người cho rằng ngành chăn nuôi vẫn còn đất sống nhờ vào hàng rào bảo hộ tự nhiên là tập quán tiêu thụ thịt tươi của người dân như một lợi thế. Không hẳn như vậy. Bởi với đường dài đại bộ phận người tiêu dùng sẽ quen dần với thực phẩm đông lạnh của ngành chăn nuôi. Vấn đề là làm sao để sản phẩm của nông dân có được giá thành sản xuất thấp nhất là một bài toán liên quan đến nhiều bộ ngành.
Câu hỏi đặt ra là tại sao cùng một mảnh đất dụng võ lại lợi thế sân nhà, tại sao doanh nghiệp Việt Nam không thể làm được như doanh nghiệp nước ngoài?
Có ba lý do chính sau đây:
Trước tiên là nhu cầu thị trường thức ăn chăn nuôi của Việt Nam rất lớn nhưng sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 1/3 nhu cầu.
Các công ty nước ngoài có lợi thế rất lớn về vốn từ công ty mẹ, nhờ vậy họ tập trung thu mua nguyên liệu với số lượng lớn vào mùa thu hoạch với giá thấp, giúp giảm chi phí nguyên liệu. Trong khi các doanh nghiệp trong nước phải vay vốn với lãi suất cao để sản xuất thức ăn chăn nuôi (khoảng 13 – 15%/năm) thì các doanh nghiệp nước ngoài lại được Chính phủ của họ cho vay lãi suất thấp, khoảng 1 – 4% để khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.
Thứ hai, hằng năm nước ta vẫn phải nhập khá lớn các nguyên liệu cho chăn nuôi từ nước ngoài theo xu hướng năm sau nhiều hơn năm trước. Trong đó nguồn nguyên liệu giàu đạm, giàu năng lượng, thức ăn bổ sung, phụ gia phải nhập khẩu tới gần 90%.
Thứ ba, do tổ chức khép kín từ khâu sản xuất thức ăn tới tổ chức hệ thống chăn nuôi gia công, nên các doanh nghiệp nước ngoài mặc dù liên tục tăng sản lượng thức ăn chăn nuôi nhưng vẫn có thị trường tiêu thụổn định; họ lại không phải nộp thuế giá trị gia tăng và tiền thuê đất.
Hội nhập cũng mang đến rất nhiều thách thức cho ngành chăn nuôi Việt Nam khi mà cả chất lượng, giá cả, mẫu mã, hình thức sản phẩm của chúng ta đang thua kém so với nước ngoài về mấy điểm sau đây: (1) phần lớn giá các sản phẩm chăn nuôi chính của chúng ta đều cao hơn các nước trong khu vực và thế giới, dẫn đến bất lợi khi cạnh tranh trên thị trường, (2) công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch trong lĩnh vực chăn nuôi còn rất yếu kém. Cả nước hiện nay chưa có doanh nghiệp, nhà máy chế biến các sản phẩm thịt, trứng, sữa quy mô lớn, do vậy sản phẩm đưa ra thị trường kém đa dạng, (3) vấn đề truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm dù đã được triển khai nhiều năm nhưng vẫn còn khó khăn, thách thức lớn và người tiêu dùng còn nghi ngại về chất lượng khi tiếp cận các sản phẩm chăn nuôi và (4) kinh nghiệm thương mại, tiếp cận thị trường của chúng ta ít, ngoài sản phẩm sữa được triển khai bài bản, còn lại các sản phẩm khác đều đang trong tình trạng được chăng hay chớ, giá cả thị trường lên xuống bấp bênh.
Tháo gỡ bằng cách nào
Nhu cầu thị trường thức ăn chăn nuôi là rất lớn, trong vòng tám năm tiếp theo phải nâng sản lượng thức ăn chăn nuôi lên ít nhất gấp hai lần so với hiện nay, đạt 25-26 triệu tấn/năm vào năm 2020.
Trong ngành chăn nuôi, sản xuất thức ăn chăn nuôi mang lại lợi nhuận cao nhất và ổn định nhất. Tuy nhiên, xét theo điều kiện thực tế khả năng nguyên liệu tự có trong nước là rất hạn hẹp.
Kinh nghiệm cho thấy thức ăn chăn nuôi là đầu vào quan trọng, chiếm đến 70% giá thành chăn nuôi. Vì thế Nhà nước cần quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu nội địa một cách cụ thể, đồng thời có những chính sách bảo hộ ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Thật nghịch lý khi một số loại nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi nhập khẩu vẫn đang phải chịu thuế trong khi thuế xuất khẩu bắp, khoai mì… lại bằng 0.
Ngoài ra, Ngân sách nhà nước và các tổ chức tín dụng có thể triển khai các hình thức tín dụng ưu đãi cho người chăn nuôi và doanh nghiệp để đầu tư trực tiếp vào các hoạt động trồng trọt, tạo vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đáp ứng yêu cầu kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, chính quyền tỉnh và các huyện có vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của dự án FDI có trách nhiệm bảo vệ và duy trì các vùng nguyên liệu đã quy hoạch để đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu cho nhà đầu tư.
Muốn người dân phát triển chăn nuôi hiện đại, cần có cơ chế tín dụng ưu đãi cho họ, chứ như hiện nay lãi suất quá cao không thể đầu tư lâu dài cho chăn nuôi.
Thực ra, vềưu đãi, Chính phủ đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên tiến độ triển khai hướng dẫn còn rất chậm, khả năng tiếp cận chính sách ưu đãi của doanh nghiệp còn kém. Nên chăng, cần có cơ chế giao cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh thành nghiên cứu đề xuất danh mục dự án đầu tư trong lĩnh vực chăn nuôi trình UBND cấp tỉnh, thành phố phê duyệt. Khi đó, các doanh nghiệp làm giống, chăn nuôi hay chế biến thực phẩm sẽ biết được danh mục ưu đãi để tiếp cận, hưởng thụ chính sách.
Lê Minh Trí (DNSGCT)