Không riêng gì bức tranh Mona Lisa mới tạo ra cảm giác nhìn theo người xem tranh như thế. Ý tưởng rất đơn giản, bất kể bạn nhìn vào bức tranh từ góc độ nào, bản thân bức tranh cũng không thay đổi. Vấn đề là bạn đang nhìn vào một bề mặt phẳng. Điều quan trọng là các điểm gần và điểm xa của hình ảnh vẫn giữ nguyên cho dù góc nhìn của hình ảnh được nhìn từ đâu. Khi quan sát các bề mặt thực trong môi trường tự nhiên, thông tin hình ảnh chỉ định các điểm gần và xa sẽ thay đổi khi chúng ta thay đổi hướng nhìn.
Mặt khác, khi chúng ta quan sát một bức tranh trên tường, thông tin thị giác xác định các điểm gần và xa không bị ảnh hưởng bởi hướng nhìn. Chúng tôi xin giải thích điều này. Do các yếu tố phối cảnh, bóng tối và ánh sáng trên bức tranh không thay đổi khi bạn di chuyển xung quanh, như thể đôi mắt trong bức tranh sẽ nhìn thẳng vào người quan sát khi người đó đứng trước bức tranh, đó là một ảo giác quang học mức độ nhẹ trong não của bạn sao cho đôi mắt sẽ tiếp tục nhìn chăm chăm vào bạn khi bạn di chuyển sang một phía khác.
Trái ngược với ảo giác ánh mắt đi theo bạn, nếu họa sĩ chỉnh sửa bức tranh một chút sao cho mắt nhìn ra nơi khác thay vì nhìn thẳng vào một người quan sát tiềm năng, bất kể bạn đứng ở đâu, đôi mắt dường như sẽ không bao giờ nhìn vào bạn.
Kỹ thuật này lần đầu tiên bắt đầu xuất hiện phổ biến trong nghệ thuật vào khoảng thế kỷ 14 khi họa sĩ kiêm kiến trúc sư Fillipo Brunelleshi giới thiệu thế giới nghệ thuật với ý tưởng về “phối cảnh tuyến tính”, nghĩa là mọi thứ trong bức tranh đều hội tụ vào một điểm cụ thể trên đường chân trời, tạo ra ảo ảnh về chiều sâu. Điều này, kết hợp với kỹ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, cho phép các họa sĩ tạo ra những bức tranh hiện thực.