Để cung cấp thông tin về Dự thảo Thông tư cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam tới báo chí, chiều 14-8, Bộ Công thương đã tổ chức buổi trao đổi trực tiếp xung quanh vấn đề này.
Liên quan tới câu hỏi tại sao bây giờ Bộ Công thương mới đưa ra quy định về cách xác định thế nào là hàng sản xuất tại Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh nhấn mạnh, theo đúng chức năng và phạm vi quản lý nhà nước, Bộ Công thương đã ban hành nhiều văn bản quy định như thế nào thì một sản phẩm, hàng hóa được coi là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hay nói cách khác là có xuất xứ Việt Nam.
Tuy nhiên, các quy định này chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu, giúp hàng hóa Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế khi vào các thị trường nước ngoài hoặc phục vụ các mục tiêu khác của quản lý ngoại thương.
Với hàng hóa sản xuất và sau đó lưu thông trong nước, việc ghi nước xuất xứ được thực hiện theo Nghị định số 43/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa. Đây là lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ, không phải của Bộ Công thương.
- Xem thêm: Thế nào là “Made in Vietnam”?
Tuy nhiên, trước một số bất cập phát sinh từ nguyên tắc tự xác định và tự chịu trách nhiệm về ghi nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa, Bộ Công thương đã chủ động đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cho phép được nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về việc như thế nào thì một sản phẩm, hàng hóa được coi là “sản phẩm của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam”.
Theo Thứ trưởng Trần Quốc Khánh, trong quá trình trao đổi sơ bộ về ý tưởng này, cũng có ý kiến cho rằng đây không phải là việc của Bộ Công thương mà là việc của nhiều bộ, ngành.
Chẳng hạn như nên giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định thế nào là nông sản Việt Nam. Tương tự, giao các Bộ Thông tin Truyền thông và Khoa học Công nghệ quy định thế nào là sản phẩm công nghệ Việt Nam, Bộ Xây dựng quy định đâu là vật liệu xây dựng Việt Nam…
Sau thời gian trao đổi, làm rõ, trên cơ sở ý kiến thống nhất của một số bộ, ngành liên quan, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý giao Bộ Công thương chủ trì xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về việc như thế nào thì một sản phẩm, hàng hóa được coi là sản phẩm của Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam. Vì vậy, Bộ Công thương đã triển khai ngay chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Trả lời câu hỏi trường hợp nào thì hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho hay, hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam phải là hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam theo quy định tại Điều 8 Thông tư.
Cùng với đó, hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa theo quy định tại Điều 9 của Thông tư.
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cũng giải thích rõ Thông tư này áp dụng cho hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam nên ngôn ngữ thể hiện bắt buộc phải là tiếng Việt. Do vậy, không được phép ghi nhãn bằng tiếng nước ngoài như “Made in Vietnam” hay “Product of Vietnam”.
Ngoài ra, hàng hóa tạm nhập tái xuất, hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh Việt Nam lại không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên bất kỳ tài liệu, vật phẩm nào chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa đó bởi đây là quy định để phòng tránh gian lận thương mại; trong đó có gian lận xuất xứ, gây ảnh hưởng xấu tới hàng hóa Việt Nam. Hơn nữa, có quy định này, cơ quan chức năng sẽ thêm cơ sở để đấu tranh phòng chống gian lận thương mại.
Lý giải việc trong ASEAN hàng hóa phải đạt hàm lượng giá trị gia tăng là 40% mới được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ mà tại Thông tư này chỉ cần hàm lượng 30% đã được coi là hàng hóa Việt Nam, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh khẳng định, trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, hàm lượng giá trị gia tăng được gọi “hàm lượng giá trị khu vực” (RVC).
Tên gọi này đã thể hiện tính chất “khu vực” của quy tắc xuất xứ, tức là cho phép cộng gộp xuất xứ của các nước thành viên.
Đơn cử như với RVC 40% trong ASEAN thì một sản phẩm có 20% giá trị của Thái Lan, 10% của Philippines, 5% của Lào và 5% của Việt Nam sẽ được coi là đạt tiêu chí xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D. Thông tư này quy định chặt hơn. Cụ thể, tỷ lệ giá trị gia tăng 30% nêu tại Thông tư là chỉ tính riêng giá trị của Việt Nam.
Với quy định như tại dự thảo Thông tư, nhiều sản phẩm có thể đáp ứng xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D nhưng chưa chắc đã đủ điều kiện để được coi là hàng hóa của Việt Nam.
Thứ trưởng Trần Quốc Khanh cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, Thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43/2017/NĐ-CP.
Hơn nữa, Thông tư còn giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.
Với Thông tư này, các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc “gian lận xuất xứ”, tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng.
Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43 tại cửa khẩu, Thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm “đội lốt” hàng Việt Nam như đã rải rác xảy ra trong thời gian qua.
Đại diện Bộ Công thương cũng cho biết, kể từ ngày Thông tư có hiệu lực thi hành, việc thể hiện nội dung hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên tài liệu, vật phẩm chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa phải tuân thủ các quy định của Thông tư, không có ngoại lệ.
Ngoài ra, theo quy định tại dự thảo, Tổng cục Quản lý thị trường là đơn vị chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Công thương và các cơ quan có thẩm quyền khác tổ chức thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm trong quá trình thực thi Thông tư này.
Trường hợp phát hiện vi phạm, Tổng cục Quản lý thị trường và các cơ quan có thẩm quyền khác sẽ tùy theo mức độ vi phạm để đưa ra chế tài xử lý phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc đăng tải dự thảo Thông tư là bước đầu tiên. Sau đó Bộ Công thương sẽ tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu dự thảo và xin ý kiến các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan về các quy định tại Dự thảo.
Đặc biệt, Bộ Công thương cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông để giải thích, làm rõ về mục tiêu ban hành Thông tư cũng như những nội dung mang tính kỹ thuật để doanh nghiệp, người dân có thể hiểu và góp ý được sát thực nhất.