Từng giảng dạy tại các trường đại học ở Huế, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh. Là một trong số ít người xây dựng ngành Phụ nữ học và dành cả cuộc đời cho việc dạy học, chị hiện đang tiếp tục công việc nghiên cứu nhiều đề tài về giới tại Trường Đại học Hoa Sen TP. Hồ Chí Minh.
____
Năm 1973 chị từ Pháp về giảng dạy tại Đại học Huế, cho đến nay vẫn đang làm việc ở một trường đại học. Làm giáo dục suốt cuộc đời, nhìn lại chị thấy có giai đoạn nào đáng nhớ?
Có hai giai đoạn. Đầu tiên là thời kỳ cần phải thích nghi sau 1975 chuyển sang hệ thống giáo dục mới. Tôi háo hức đón nhận những tư tưởng mới lạ, nhất là được nghe người lãnh đạo ngành giáo dục – giáo sư Tạ Quang Bửu nói về đường lối giáo dục của xã hội mới lo cho con em người nghèo, tầng lớp bị thiệt thòi. Lo không có nghĩa là ưu tiên cho thêm điểm hay bỏ qua sự yếu kém, mà là phải tổ chức nâng trình độ con em giới lao động nghèo khổ. Giúp bằng cách làm cho họ giỏi thực sự. Tôi rất thích cách nhìn đó.
____
Sau giải phóng có một thời kỳ khó khăn, khủng hoảng, nhiều trí thức ra đi. Chị có cảm thấy hụt hẫng?
Đúng là khi ấy đời sống giáo viên, trí thức sụt giảm nhiều. Cả thầy và trò đều rất cực. Trí thức ra đi, do khó khăn vật chất chỉ một phần, còn là do không có điều kiện làm việc, cảm thấy sự có mặt của mình không lợi ích gì cho đất nước. Những năm khó khăn đó tôi rất lo lắng, nếu tình hình kéo dài thì không biết tương lai sẽ như thế nào. Nhưng tôi vượt qua được giai đoạn đó. Tôi thuộc gia đình trung lưu với tinh thần dân Huế xứ nghèo tiết kiệm không bao giờ xa hoa. Việc thích nghi với đời sống vất vả với tôi có vẻ dễ dàng. Thời trẻ tôi gắn bó với phong trào, thiên về xu hướng phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ nên khi giải phóng tôi đón nhận chế độ mới vì bảo vệ được hòa bình. Gia đình tôi ở đây, đất nước giành được độc lập, bao thế hệ đã hy sinh, nên mình phải cố gắng.
____
Còn giai đoạn thứ hai là thời kỳ nào, thưa chị?
Đó là thập niên 1990, trong bối cảnh đất nước mở cửa, có giao lưu quốc tế về mặt khoa học, ở trong nước thì phát triển học thuật, có nhiều thí điểm mới. Tôi ở khoa Địa lý, một thời làm trưởng khoa, luôn tìm cách nâng cao trình độ đồng nghiệp và suy nghĩ để áp dụng phương pháp giảng dạy sáng tạo, giúp sinh viên suy nghĩ năng động hơn. Khi đã có cả điều kiện học thuật lẫn kinh tế, khoa Địa lý phát triển tin học – một công cụ cần thiết. Được tự do cải tiến chương trình giảng dạy, tôi đưa vào chương trình từ rất sớm môn Đại cương quản trị, mời TS Trần Anh Tuấn giảng các môn kinh tế, quản trị. Tôi cũng thấy sinh viên yếu về viết lách nên đưa môn Tiếng Việt thực hành vào và môn học này còn lại trong chương trình đại cương đến tận hôm nay. Tóm lại, thời kỳ đó là mốc quan trọng trong việc mở rộng học thuật, có điều kiện làm một số việc có ích phù hợp với những mong muốn của mình.
____
Chị đã góp phần xây dựng nên ngành Phụ nữ học ở Việt Nam như thế nào?
Một cơ duyên tốt đến vào năm 1992, khi chúng tôi mở rộng hoạt động học thuật địa lý nhân văn, nghiên cứu đô thị, dân số, phụ nữ. Có sự trùng hợp lúc đó thầy Cao Văn Phường ở Đại học Mở có hướng đi mới trong khoa học xã hội, hợp tác với một số trường nước ngoài như Canada mở ra ngành Đông Nam Á học đầu tiên, rồi các ngành như Quản trị, Phụ nữ học. Đây là một bước ngoặt quan trọng. Tôi phối hợp với nhà hoạt động xã hội Nguyễn Thị Oanh (vốn là bạn từ năm 1976) để đưa Phụ nữ học và Công tác xã hội vào trường đại học. Chúng tôi đào tạo và xây dựng chương trình nghiên cứu phụ nữ học nặng về thực hành, đào tạo kỹ năng công tác xã hội phục vụ nhiều đối tượng, trong đó có nhiều phụ nữ thiệt thòi, phục vụ cả đối tượng trẻ em. Từ đó hình thành chương trình đào tạo cử nhân ngành Phụ nữ học. Khoa Phụ nữ học mở rộng quan hệ hợp tác, được hỗ trợ thực hiện các công trình nghiên cứu, xây dựng tủ sách giáo khoa. Đã thực hiện một số công trình nghiên cứu về phụ nữ và trẻ em. Điều tốt nữa là sinh viên có những kỹ năng công tác xã hội, biết sử dụng những điều đã học. Lúc đó chúng tôi còn tìm được cả học bổng cho cán bộ của Hội Liên hiệp Phụ nữ đi học, hợp tác với Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương 2 đào tạo cử nhân ngành Phụ nữ học cho cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ từ Đà Nẵng đến Cà Mau. Sau này do đặc điểm tuyển sinh lứa tuổi ngày càng trẻ, người lớn tuổi đi học ngày càng giảm, dần dần phải đổi thành khoa Xã hội học.
Ở Việt Nam, nam giới ủng hộ bình đẳng giới không mạnh. Họ sợ mất quyền. Ngay suy nghĩ của phụ nữ cũng đầy mâu thuẫn, ngộ nhận, cho rằng bình đẳng giới thì phụ nữ phải từ bỏ vai trò, không chăm lo gia đình nữa.
____
Như vậy có phải là một bước lùi, mất đi trận địa tốt cho những vấn đề phụ nữ?
Bề mặt hình thức có vẻ thụt lùi. Phụ nữ học đã được chính thức hóa nhưng chưa đủ nền tảng, phải thu hẹp lại. Nhưng có cơ may, là mở ra cho các chương trình đào tạo thâm nhập vào cái mới. Kết quả bền vững của chuyện này là: đưa được môn Giới vào chương trình đào tạo bậc đại học. Chương trình khung của Xã hội học đã đưa nội dung xã hội học về giới vào. Tôi nghĩ có phần đóng góp của sự xuất hiện khoa Phụ nữ học. Các hoạt động học thuật bậc đại học đã chú ý về giới và nữ quyền. Thí dụ ở khoa Văn, có những đề tài nghiên cứu lý thuyết văn học về nữ quyền. Khoa Sử cũng vậy, có những kết quả lan tỏa. Một số chương trình cao học cũng đề cập các lĩnh vực giới, môi trường và phát triển. Các nhà quản lý đã thấy vấn đề. Đây là bước ngoặt của việc xâm nhập môn Giới vào bậc đại học.
____
Và từ đó, chị không rời xa vấn đề giới và phụ nữ, chúng trở thành chủ đề trung tâm mà chị bỏ ra tất cả công sức?
Tôi chính thức nghỉ hưu ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2002, còn tiếp tục làm trưởng khoa Phụ nữ học của Đại học Mở vài năm nữa. Khi đó tổ chức Đại học Pháp ngữ (Agence Universitaire Francophonie – AUF) đề nghị tôi làm cố vấn khoa học. Từ gọi cho oai vậy, thực chất là làm công tác chuyên môn. Tôi làm việc liền bảy năm sau đó, làm cầu nối cho tổ chức này giữa các trường đại học Pháp và các giảng viên Việt Nam. Công việc chính vẫn là giáo dục. Có các mạng lưới nghiên cứu, trong đó có nghiên cứu về giới, tôi tham gia. Nhờ thế, tôi có dịp tiếp xúc với chuyên gia các nước, học thêm diễn tiến lý thuyết nghiên cứu những khía cạnh đặc thù của phụ nữ.
____
Chị về Đại học Hoa Sen, có phải vì trường này ưu tiên phát triển nghiên cứu?
Đầu năm 2010 tôi về ĐH Hoa Sen vì chị Bùi Trân Phượng hiệu trưởng là đồng nghiệp biết nhau từ lâu. Chị ấy cũng từng giảng dạy về lịch sử phụ nữ Việt Nam. Hoa Sen thành đại học mới năm năm nhưng ưu tiên phát triển nghiên cứu các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, có truyền thông, có cách tiếp cận với xã hội tốt hơn. Nghiên cứu về giới, về phụ nữ cũng là một trọng tâm, tôi tham gia thành lập Trung tâm Nghiên cứu giới và xã hội. Nhóm nghiên cứu theo đuổi mục đích tương lai phát triển nghiên cứu về phụ nữ, phổ biến thông tin khoa học về phụ nữ và về giới cho công chúng Việt Nam, vì mối quan tâm đến vấn đề này ở Việt Nam chưa nhiều. Chúng tôi mong tiến tới xây dựng mối liên kết với các nước khác để học hỏi, góp phần làm giàu nghiên cứu về giới ở Việt Nam.
____
Chị đặt trọng tâm cho những công việc lớn này vào vấn đề gì trước mắt?
Chúng tôi đặt trọng tâm trước tiên vào phổ biến kiến thức, xây dựng trang web giới và xã hội. Làm bản tin điện tử ba tháng một lần và xuất bản tuyển tập giới và xã hội.
____
Trong điều kiện thông tin phát triển rộng khắp như hiện nay, chị nhắm vào vấn đề nào cho phụ nữ Việt Nam?
Các nước khác cũng ưu tiên cho việc cần nhất là phổ biến kiến thức và nâng cao nhận thức không chỉ cho riêng phụ nữ mà cho xã hội.
____
Ở nước ta có nhiều nơi nghiên cứu về giới và phụ nữ không, thưa chị?
Một số trung tâm nghiên cứu có ở miền Bắc như Viện Nghiên cứu gia đình và giới do giáo sư Lê Thi thành lập, Trung tâm Nghiên cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển do giáo sư Nhâm Tuyết thành lập. Ở miền Nam ít hơn, có Trung tâm Nghiên cứu gia đình và giới tại Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ. Nói chung, ở Việt Nam, hiểu biết về quan hệ xã hội nam – nữ với tư cách hai nhóm xã hội thường rất ít. Mà quan hệ nam – nữ thường hay quy về quan hệ cá nhân, không quan tâm đó là hai nhóm xã hội rất lớn.
____
Chị giải thích sao khi có nhiều ý kiến cho rằng, nói phong trào phụ nữ thì đúng hơn là một vấn đề khoa học?
Đó là định kiến sai về hoạt động nghiên cứu vấn đề phụ nữ. Vai trò của các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu rất cần thiết cho thấy vấn đề giới và phụ nữ là khoa học chứ không đơn thuần là phong trào. Hội Phụ nữ cũng có bộ phận nghiên cứu các vấn đề lý thuyết. Các cơ quan phát triển sẽ biện hộ và làm rõ hơn ngành khoa học này.
____
Ngành khoa học ấy cần cho xã hội như thế nào?
Nó liên quan đến nhiều ngành. Những hoạt động phát triển mà toàn xã hội đang dốc sức lo như môi trường, nhân lực, xóa đói giảm nghèo… sẽ được thực hiện tốt hơn.
____
Với niềm tin như thế, chị đang thực hiện những chương trình cụ thể nào?
Hoa Sen là đại học tư, điều kiện có hạn, chúng tôi sẽ đi từ việc nhỏ đến việc lớn. Ngoài việc phổ biến kiến thức, nhận thức qua bản tin ba thứ tiếng cho hơn 1.000 địa chỉ, trung tâm chúng tôi xây dựng một số đề tài nghiên cứu cụ thể như: “Giới và giáo dục”, “Giới và lịch sử”, “Giới và các khía cạnh bạo lực” (không chỉ có bạo lực gia đình, mà cả những hình thức bạo lực khác). Chúng tôi cũng tiến hành các nghiên cứu nho nhỏ, như khảo sát, phỏng vấn thế hệ nữ sinh học Trường Pháp Việt trước 1945, lời chứng về sự có học đã giúp gì cho cuộc đời họ, góp phần hình thành lớp nữ trí thức đầu tiên của Việt Nam. Phỏng vấn những nữ sinh Đồng Khánh, Gia Long… – những trường trước đây đã truyền cho họ những giá trị giáo dục, họ tiếp nhận với suy nghĩ về tương lai, vận mệnh đất nước, dân tộc, xây dựng nhân sinh quan…
____
Gặp lại được thế hệ trí thức đầu tiên ấy, chắc có nhiều chuyện cảm động?
Có cả một hoa khôi Đồng Khánh, chị Phan Thanh Ty Ty nay đã 93 tuổi ở Hà Nội, ngày xưa học giỏi và đẹp nổi tiếng. Có nhiều số phận trôi nổi khác nhau. Người đi theo kháng chiến, người ra nước ngoài trở về. Suy nghĩ chính trị của họ khác nhau, nhưng không ai quên và vẫn nâng niu kỷ niệm thời đi học với tình thân lâu dài. Đó là một khía cạnh tình cảm rất đặc biệt. Trên thế giới, người ta có những nghiên cứu về phụ nữ và bạo lực trong các xã hội đương đại, như các mối xung đột giữa Israel và Palestine. Chúng tôi tổ chức phỏng vấn sâu khoảng 20 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Chúng tôi học được nhiều điều đáng ghi nhận: Bao nhiêu hy sinh, mất mát, nhưng không ai mang lòng hận thù với đối phương đã giết hại chồng con mình. Các mẹ đều nói do hoàn cảnh chiến tranh. Sự khoan dung rất tự nhiên, trong bản chất tâm hồn, rất xúc động. Xã hội phải mang ơn và chăm sóc các mẹ nhiều hơn, có sự liên lạc lâu bền chứ không phải chỉ quan tâm vào các ngày kỷ niệm, lễ tết…
____
Nghiên cứu sâu phụ nữ học, chị đánh giá thế nào về phụ nữ Việt Nam?
Câu hỏi quá rộng. Nhưng có thể nhận xét, dường như những suy nghĩ hành động của phụ nữ luôn phải chăm lo cho sự sống còn của gia đình, có nghị lực bươn chải, do đó việc dấn thân vào các hoạt động kinh tế trong thời kỳ đổi mới của phụ nữ thật mạnh mẽ. Ở Việt Nam, nam giới ủng hộ bình đẳng giới không mạnh. Họ sợ mất quyền. Do ảnh hưởng suy nghĩ của xã hội đã tác động vào cả nam lẫn nữ, gây bất lợi cho sự công bằng tốt đẹp. Ngay suy nghĩ của phụ nữ cũng đầy mâu thuẫn, ngộ nhận, cho rằng bình đẳng giới thì phụ nữ phải từ bỏ vai trò, không chăm lo gia đình nữa, cho là du nhập quan niệm của phương Tây. Ngộ nhận phương Tây bỏ bê con cái, phóng khoáng kiểu buông thả.
____
Như vậy bình đẳng giới có phải chỉ có lợi cho phụ nữ, còn đàn ông thiệt thòi như nhiều người vẫn nghĩ thế?
Phải cả nam lẫn nữ hiểu bình đẳng giới giúp xây dựng quan hệ tốt đẹp hài hòa. Trước đây địa bàn của nữ là ở gia đình, nam ở ngoài xã hội, nay nữ tham gia hoạt động xã hội và nam cũng tham gia công việc trong gia đình, giáo dục con cái. Nam giới sẽ tìm thấy nhiều hạnh phúc hơn khi lo cho gia đình, các bà mẹ không nên độc quyền, không nên yên trí việc đó là của riêng mình, cắt bớt hạnh phúc của nam giới.
____
Nhưng chị chắc có nghe nhiều lời kêu ca suy thoái đạo đức xã hội, trong đó có nguyên nhân là gia đình đang hỏng, suy giảm vai trò giáo dục?
Tiếng nói của đồng tiền mạnh khắp nơi. Nếu cha mẹ nuôi một giá trị như vậy thì sẽ hỏng. Tôi hay bàn bạc, thảo luận với nữ sinh viên, trong lòng có nhiều hy vọng vì các em đã có những suy nghĩ tiến bộ. Nữ phải học hành giỏi giang, chăm lo gia đình, được tôn trọng, bình đẳng. Với các em nam cùng tuổi, khi nói quan điểm thì tiến bộ, nhưng bàn sâu lại thấy vết tích gia trưởng. Họ ủng hộ phụ nữ công tác nhưng nếu hỏi muốn lấy một người vợ như thế nào thì đều chọn người chăm lo gia đình là chính. Có người nói không cần vợ học cao. Sự tiến bộ “dành cho người khác, nhưng đừng động đến gia đình của tôi”.
____
Nghe những lời như thế, chị nghĩ gì?
Về khía cạnh giới thì sự sa sút của xã hội ảnh hưởng nhiều nhất đến phụ nữ. Nhiều người vẫn tin ở mãnh lực đồng tiền. Có người nghĩ con hy sinh lấy chồng Hàn Quốc không cần tình yêu là thực hiện chữ hiếu với cha mẹ, chứ không hề nghĩ phải chuẩn bị cho con cái biết cách có cuộc sống tốt đẹp. Vẫn theo mẫu hình phong kiến, cha mẹ nắm quyền nhưng không nghĩ tới tương lai hạnh phúc của con cái. Chính cha mẹ cũng thiếu hiểu biết, không có cơ sở đạo đức vững chắc. Nếu môi trường xã hội tốt sẽ định hướng đúng đắn hơn cho cha mẹ, giúp giới trẻ nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp. Tình trạng chung đúng là có băng hoại, nhưng vẫn có những gia đình nông dân cố làm lụng cho con học hành, vẫn có những người trẻ quan tâm tới các giá trị xã hội tốt đẹp. Phải làm sao nuôi dưỡng được những điều tốt đẹp.
Có người nghĩ con hy sinh lấy chồng Hàn Quốc không cần tình yêu là thực hiện chữ hiếu với cha mẹ, chứ không hề nghĩ phải chuẩn bị cho con cái biết cách có cuộc sống tốt đẹp. Nếu môi trường xã hội tốt sẽ định hướng đúng đắn hơn cho cha mẹ, giúp giới trẻ nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp.
____
Suốt đời dạy học và cũng nghe quá nhiều bàn luận về giáo dục, chị có đánh giá nào không?
Tôi thấy vẫn luôn có một tầng lớp thanh niên sinh viên nỗ lực đạt kết quả trong học tập. Nhưng tôi có một thắc mắc, đó là người trẻ tuổi ra nước ngoài học cũng tốt, xuất sắc, nhưng nếu về nước làm giáo dục trong cơ chế nặng nề lại không phát huy được.
____
Chị nghĩ thế nào khi nghe nhiều nhà tuyển dụng chê sản phẩm của đại học, chê chất lượng sinh viên?
Người ta nói chung như vậy. Có quá nhiều trường đại học, không phải trường nào cũng đầu tư được giảng viên. Giảng viên giỏi khan hiếm. Rồi phương tiện, trường sở, thí nghiệm… đòi đầu tư nhiều. Chất lượng không đồng đều. Còn kêu ca sản phẩm đào tạo ư? Một số nhà tuyển dụng nước ngoài đòi tiêu chuẩn quốc tế, hoặc một số cơ quan Việt Nam hoạt động đúng chuẩn chê sinh viên Việt Nam. Nhưng tôi quan sát thị trường lao động, thấy chất lượng hoạt động của một số doanh nghiệp cũng rất thấp. Một em đỗ tú tài có kinh nghiệm và một em tốt nghiệp đại học cũng chỉ được sử dụng làm việc giống nhau. Nếu làm du lịch thì cũng lo chạy vé, xin visa, nhiều khi lo hậu cần là chính. Yêu cầu nguồn nhân lực cũng không phải cao. Ở thành phố lớn các em dễ tìm việc làm, thu nhập cao hay thấp phụ thuộc vào ngành chứ không do trình độ chuyên môn. Việc nhận xét chắc phải để người nghiên cứu thị trường lao động nói thì hay hơn.
____
Người ta hay kêu sinh viên bây giờ không biết suy nghĩ độc lập. Theo chị, đại học có sửa được thói xấu này không?
Khi làm việc với sinh viên, tôi lại nghĩ đến bậc tiểu học, trung học. Suy nghĩ tìm tòi ham thích học hỏi phải được rèn luyện căn bản từ các cấp học trước, để trường đại học phải bắt đầu từ đầu thì rất khó. Thời tôi đi học xa xưa lắm, cổ lỗ thô sơ hơn nhiều, nhưng những điều cốt lõi thầy đã dạy tạo điều kiện cho học sinh đọc sách, tìm tòi, suy nghĩ, cách nhìn vấn đề, lập luận, một tinh thần phóng khoáng tôn trọng các ý kiến đa chiều, hiểu thế giới này rất đa dạng. Đó là rèn cho biết tự học, không mù quáng tuân theo những gì không suy nghĩ. Chứ hiện nay, tôi có hướng dẫn sinh viên làm luận văn, lúc các em tìm hiểu, phỏng vấn, có phát hiện nhiều điều thú vị, nhưng khi viết, các em bỏ hết, lại bê nguyên những tư liệu chính quy giống khuôn mẫu.
____
Xin cảm ơn chị đã dành cho một cuộc trò chuyện nhiều ý nghĩa.