Gần kết thúc quý III-2015, ngành thủy sản Việt Nam đã không còn hy vọng giữ vững được kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như tôm và cá tra. Thực trạng tăng trưởng kém bền vững của ngành đã bắt đầu bộc lộ rõ khi các yếu tố thuận lợi khách quan không còn nữa. Trong bối cảnh đó, hai hướng giải quyết là giảm giá thành và mở rộng thị trường vẫn còn quá nhiều nút thắt cần tháo gỡ.
Bài toán về giá, yếu tố quyết định để giữ thị trường
Trong tám tháng đầu năm 2015, giá trị tôm xuất khẩu đã sụt giảm khoảng từ 35 – 40% trên tất cả các thị trường quan trọng của Việt Nam. Theo các doanh nghiệp, nguyên nhân chính là do giá thành tôm xuất khẩu của Việt Nam đang quá cao so với các nước cạnh tranh trực tiếp như Ấn Độ, Indonesia. Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, nếu cố gắng thì kim ngạch xuất khẩu tôm cả năm 2015 cũng sẽ chỉ đạt 3,2 tỉ USD, giảm khoảng 900 triệu USD so với năm ngoái.
Thị trường Nhật cũng đang giảm nhập tôm Việt Nam, để tăng hàng Ấn Độ và Indonesia. Thời gian qua, Indonesia đã phá giá đồng tiền tới 28%, khiến giá sản phẩm của chúng ta không thể đuổi kịp. Báo cáo của VASEP cho thấy gần đây giá tôm Việt Nam tại thị trường Nhật giảm tới 16,7% trong khi đó, các nước trong khu vực chỉ giảm 1 – 2%, thế nhưng giá tôm Việt Nam vẫn còn cao hơn các nước trong khu vực 5 – 10%.
Theo ý kiến chung của nhiều doanh nghiệp, muốn tăng sức cạnh tranh thì phải giải bài toán đầu tiên là hạ giá thành nuôi tôm. Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn thủy sản Minh Phú cho rằng giá tôm Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực là do giá thành nguyên liệu, giá nhân công, chi phí đầu vào như điện, nước thời gian qua tăng nhanh và cao. Đại diện một doanh nghiệp chế biến tôm ở Bến Tre cho biết mức lương trung bình của công nhân thủy sản Việt Nam lâu nay vẫn cao hơn lương tối thiểu. Sắp tới đây, khi mức lương tối thiểu được nâng thêm, chi phí bảo hiểm mà doanh nghiệp phải đóng thêm là không nhỏ. Trong khi đó, thu nhập thực tế của công nhân không tăng thì cũng rất khó cải thiện năng suất.
Bên cạnh mặt hàng tôm, lượng cá tra xuất khẩu sang thị trường châu Âu cũng suy giảm. Bên cạnh yếu tố người tiêu dùng châu Âu thắt chặt chi tiêu thì nguyên nhân chính là do sự cạnh tranh quyết liệt của doanh nghiệp các nước khác; nhất là thời gian qua, tỷ lệ mạ băng và hàm lượng nước trong cá tra fillet đông lạnh Việt Nam ngày càng cao, cùng với việc thiếu nhãn hiệu chất lượng Việt Nam để quảng bá đã làm ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm. VASEP từng khuyến cáo, giá cá tra xuất khẩu phải ở mức tối thiểu 3 USD/kg thì mới bảo đảm các bên có lãi. Nhưng do tranh giành khách hàng, nhiều doanh nghiệp đã chào giá 1,8-2,3 USD/kg.
Việc cạnh tranh bằng cách hạ giá bán sản phẩm khiến các nhà nhập khẩu lo ngại rủi ro về chất lượng nên nhập khẩu nhỏ giọt để ép giá, hậu quả cuối cùng lại ép giá mua cá nguyên liệu trong nước. Theo đại diện một nhà nhập khẩu và phân phối cá tra Việt Nam tại châu Âu, chính hành động phá giá của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua đã khiến vị thế cá tra ngày càng xuống. Nhà nhập khẩu không thích hành động này vì họ phải cạnh tranh và khó được lãi khi luôn có người bán rẻ hơn.
Xúc tiến thương mại cần được chú trọng hơn
Ông Alfons Van Duijvenbode, chuyên viên của Trung tâm xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển (CBI Hà Lan) cho rằng, muốn tăng niềm tin của người tiêu dùng tại châu Âu về các món ăn từ cá tra, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược quảng bá marketing với nhiều hình thức khác nhau để nêu bật giá trị cá tra như một món ăn lý tưởng, dễ chế biến, là món nên ăn hằng ngày.
Các chuyên gia thuộc Dự án Xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam (SUPA) cho biết, người tiêu dùng châu Âu vẫn ưa chuộng cá tra do dinh dưỡng cao, thơm ngon, không có xương ngang, dễ chế biến và giá bán phù hợp. Khâu yếu nhất trong ngành cá tra Việt Nam hiện nay là quảng bá, xây dựng hình ảnh. SUPA cho rằng Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Na Uy trong việc phát triển thương hiệu quốc gia cho sản phẩm cá hồi nước này. Tuy nhiên, nếu ngân sách xúc tiến thương mại dành riêng cho mặt hàng cá hồi Na Uy lên đến 100 triệu USD/năm thì ngân sách xúc tiến thương mại cho cả ngành thủy sản Việt Nam mỗi năm chỉ ở mức hơn 6 tỉ đồng (khoảng 250.000 USD).
Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch VASEP, xúc tiến thương mại hiện nay không đơn giản là tham gia các hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Điều cần làm hơn là đưa truyền thông nước ngoài vào Việt Nam để họ chứng kiến tận mắt quy trình sản xuất cá tra. Từ đó tránh được tình trạng cá tra bị bôi nhọ như đã từng xảy ra.
Dù luôn coi Thái Lan là đối thủ cạnh tranh nhưng Việt Nam đã không học được kinh nghiệm xúc tiến từ nước này. Năm 1952, ngay khi nền nông nghiệp chưa phát triển, Thái Lan đã xác định phải ưu tiên hàng đầu cho lĩnh vực xúc tiến thương mại với sự hình thành Cục Xúc tiến xuất khẩu. Cục có nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp ở năm lĩnh vực – thông tin thị trường, đào tạo nhân lực, phát triển sản phẩm (chú trọng mẫu mã thiết kế), tổ chức sự kiện, phát triển mạng lưới văn phòng đại diện ở nước ngoài (để thường xuyên cập nhật thông tin về nhu cầu, sự biến động của thị trường).
Với chiến lược này, Thái Lan đã trở thành một trong những quốc gia có công nghệ xúc tiến thương mại mạnh nhất trong khu vực. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại thủy sản của Thái Lan được tiến hành với sự tham gia của các công ty tiếp thị đa quốc gia, thực hiện việc nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm và đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ toàn bộ các khâu trong chuỗi sản xuất. Một số công ty thương mại lớn của Thái cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài chính cho các hoạt động nghiên cứu, xây dựng chiến lược xúc tiến thương mại.
Tại Việt Nam, với ngân sách ít ỏi và sự hỗ trợ khiêm tốn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, hầu hết doanh nghiệp đều phải tự xây dựng và triển khai các chương trình xúc tiến thương mại riêng. Song, việc tiếp cận thị trường của hầu hết các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam vẫn đang dựa vào kinh nghiệm hơn là những chiến lược kinh doanh được nghiên cứu, xây dựng một cách bài bản, chuyên nghiệp. Đây cũng là điểm yếu khiến ngành thủy sản nước ta khó mở rộng được thị trường mới.
Hiện nay, thị trường Nga và Trung Quốc được đánh giá là rất tiềm năng do nhu cầu tiêu thụ lớn, yêu cầu chất lượng không quá gắt gao như châu Âu, nhưng theo bà Trương Thị Lệ Khanh, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn, chiến lược chắc chắn nhất để xâm nhập thị trường Trung Quốc là phải xây dựng được thương hiệu sản phẩm và phát triển thị trường bền vững. Tương tự với ý kiến của bà Lệ Khanh, ông Phạm Quang Niệm – Tham tán Thương mại tại Nga cho biết hàng thủy sản Việt Nam gặp khó khăn ở thị trường Nga là do sản phẩm chưa được quảng bá mạnh mẽ, chưa gây được sự chú ý với người tiêu dùng nước này.