Thông thường khi Hollywood bắt tay vào thực hiện các bộ phim, người ta đã tính toán trước tất cả các giai đoạn, từ kịch bản, thu hình cho đến xử lý kỹ xảo và quá trình làm hậu kỳ, và phát hành phim.
Thường thường lịch công chiếu sẽ không đổi khác là mấy so với dự trù. Nhưng vẫn có một số bộ phim “ngoại hạng” với quá trình thực hiện kéo dài rất lâu, thậm chí có phim đến gần 50 năm mới làm xong.
Phim The Other Side of the Wind: Gần nửa thế kỷ thực hiện
Năm 2018, những người mê xem phim ở khắp mọi nơi cuối cùng đã được xem một trong những viên ngọc vĩ đại của lịch sử điện ảnh: bộ phim cuối cùng của Orson Welles, The Other Side of the Wind (Phía bên kia ngọn gió). Vào thời điểm cuối cùng nó được phát hành qua Netflix, hãng phim đã bỏ tiền ra để hoàn thành sản xuất và làm một bộ phim tài liệu về dự án bị chôn vùi từ lâu, đã 48 năm trôi qua kể từ khi Orson Welles bắt đầu quay bộ phim, 42 năm kể từ khi ông dừng lại, và 33 năm kể từ khi ông qua đời vào năm 1985.
Orson Welles bắt đầu quay phim Wind vào năm 1970, và nó được cho là bộ phim vừa đánh dấu sự trở lại Hollywood của ông, vừa là một kiểu làm phim mới; đây là bộ phim được ca ngợi cuối cùng của vị đạo diễn nổi tiếng khi ông chiếu những cảnh từ bộ phim mới đang còn dang dở của mình cho bạn bè và những người ngưỡng mộ trong bữa tiệc sinh nhật lần thứ 70 của mình.
Orson Welles đã ngừng quay bộ phim trong 6 năm tiếp theo và sẵn sàng bắt tay trở lại bất cứ khi nào ông có tiền và có thể tập hợp được dàn diễn viên chính (bao gồm cả John Huston đóng vai chính). Cuối cùng, tiền cạn dần và các nhà tài chính tham gia bắt đầu tranh cãi xem chính xác ai mới là người có quyền quay phim. Sự kết hợp giữa rối loạn tài chính và không quan tâm từ các nhà đầu tư sau đó, khiến cho việc hoàn thành bộ phim bị kéo dài hơn 4 thập niên. Mãi đến năm 2018, cuối cùng The Other Side of the Wind mới được công chiếu tại Liên hoan phim Venice.
Amazing Grace: Hơn bốn thập niên
Đôi khi một bộ phim cần phải chuyển từ cảnh quay thô đến trải nghiệm màn bạc để hoàn tất. Vấn đề là có một số bộ phim phải chờ hàng thập niên mới được hoàn thành. Đó là trường hợp của phim Amazing Grace, bộ phim về Nữ hoàng nhạc soul Aretha Franklin được chiếu lần đầu tiên chỉ vài tháng sau khi bà mất vào mùa hè năm 2018.
Franklin đã luôn dự định thực hiện một album nhạc live năm 1972 của cô, tựa đề Amazing Grace, được cô thu âm trong hai đêm biểu diễn tại nhà thờ Tin Lành Baptist New Temple ở Los Angeles, để làm thành một bộ phim. Đạo diễn Sydney Pollack (sau đó nổi tiếng với các bộ phim như They Shoot Horses, Don’t They?) được thuê để chỉ đạo bộ phim tài liệu này, và ông đã quay cả hai đêm trình diễn của Franklin. Mặc dù các ghi chú của album hứa hẹn phiên bản phim đang triển khai, nhưng nó không bao giờ thành hiện thực, và các cảnh quay đành để lưu trữ trong nhiều thập niên.
- Xem thêm: Khi siêu anh hùng còn bạo lực hơn kẻ ác
Năm 1990, một viên chức của Atlantic Records tên Alan Elliott đã bị thu hút với các cảnh phim; anh bắt đầu nói chuyện với Sydney Pollack về khả năng hồi sinh bộ phim. Phải mất một số năm và thậm chí phải thế chấp ngôi nhà của mình, Elliott mới thực hiện tiếp được các cảnh quay, sau đó anh thấy rằng một phần của vấn đề là do Sydney Pollack đã không nỗ lực trong quá trình làm phim, để đồng bộ hóa hình ảnh và âm thanh. Ngay cả sau khi cắt bớt một cảnh quay thô, anh đã gặp rắc rối pháp lý từ chính Aretha Franklin, cuối cùng Elliott cũng có thể thỏa thuận với gia đình của nữ ca sĩ. Amazing Grace được phát hành trên toàn thế giới vào năm 2019.
Phim Boyhood mất 12 năm để hoàn thành
Với phim Boyhood (Thời thơ ấu), Richard Linklater biết chính xác những gì ông đã làm khi ông khởi động một bộ phim thực sự sẽ đi theo một đứa trẻ từ lớp một đến hết năm trung học. Linklater bắt đầu nghĩ về ý tưởng thực hiện Boyhood vào cuối những năm 1990, khi ông cân nhắc làm một bộ phim về thời thơ ấu nhưng trở nên thất vọng vì “giới hạn tự nhiên” của việc chọn một diễn viên trẻ ở một độ tuổi duy nhất.
Nhưng đến năm 2001, Linklater đã có một khám phá, mỗi năm quay một đoạn của bộ phim và cho phép nam diễn viên trẻ, vai chính của phim, lớn lên theo đời thực. Do đó, phim Boyhood đã được bấm máy. Với sự tham gia của các diễn viên Ethan Hawke, diễn viên Patricia Arquette từng đoạt giải Oscar và Ellar Coltrane là vai chính của bộ phim, câu chuyện ngổn ngang của Linklater đã được phát hành và nhận được nhiều lời khen ngợi vào năm 2014.
Bad Taste, bộ phim vốn chỉ 25.000 đô la
Rất lâu trước khi ông trở thành bậc thầy đoạt giải Oscar với phim The Lord of the Rings (và là nhà làm phim thường xuyên huy động các ngân sách chín con số với tất cả các hiệu ứng hình ảnh mới nhất), Peter Jackson là một thanh niên đến từ New Zealand, anh muốn làm phim theo phong cách của mình, bất chấp mọi vấn đề. Những bộ phim đầu tiên của anh tiết lộ một sự thông minh và dí dỏm dường như vô tận kiểu tự biên tự diễn, và tất cả bắt đầu với phim Bad Taste.
Phim truyện đầu tay của Jackson là một phim hài khoa học viễn tưởng về người ngoài hành tinh xâm chiếm Trái đất để thu hoạch con người, biến họ thành món fast food. Bad Taste được sản xuất với số vốn 25.000 đô la, và Jackson tự mình làm nhà quay phim, phù thủy kỹ xảo, đồng biên tập, kiêm diễn viên, cũng như nhà sản xuất, đồng tác giả, và đạo diễn. Để biến một phim ngắn thành phim truyện, Jackson rót tiền túi của mình tích lũy từ tiền lương làm thợ khắc ảnh cho một tờ báo địa phương vào dự án. Để công việc sản xuất không ảnh hưởng tới việc làm hàng ngày của mọi người, phim Bad Taste đã được quay chủ yếu vào cuối tuần, và kết quả là quá trình làm bộ phim kéo dài trong bốn năm. Bad Taste được phát hành vào năm 1987, và nó đã giới thiệu Peter Jackson với thế giới như một tài năng đầy hứa hẹn.
Phim Evil Within: 15 năm vật lộn giữa quái vật và tài chính
Nếu tình cờ nhìn các tựa phim kinh dị mới nhất so với những phim kinh dị hồi năm 2017, có lẽ bạn sẽ bỏ qua phim The Evil Inside (Ác Quỷ Bên Trong). Bộ phim kinh dị siêu thực này nói về một cậu bé bị một sinh vật trong gương buộc cậu thực hiện vụ giết người, câu chuyện chẳng có gì đặc biệt cho lắm. Tuy nhiên, nếu kiểm tra kỹ hơn, phim The Evil Inside là dự án đam mê của một triệu phú đã dành hơn một thập niên để thực hiện bộ phim, và ông đã qua đời trước khi phim được hoàn thành.
The Evil Inside ban đầu có tên là The Storyteller (Người kể chuyện), bộ phim là sản phẩm của Andrew Getty, người thừa kế công ty dầu mỏ Getty Oil, dựa trên những cơn ác mộng của chính ông. Getty đã viết kịch bản, làm đạo diễn và tự bỏ vốn làm phim. Ông đã quay The Evil Inside từ năm 2002 đến năm 2007. Ông sáng tạo ra các hiệu ứng hình ảnh của riêng mình bao gồm các giàn máy quay và hoạt hình ba chiều, ông biến một căn phòng trong nhà thành phòng sản xuất hậu kỳ, nơi ông dành nhiều năm thực hiện bộ phim.
- Xem thêm: Nghề sáng tạo ngôn ngữ cho phim
Getty qua đời năm 2015 ở tuổi 47, chỉ còn việc biên tập và một số khâu xử lý màu sắc của The Evil Inside là làm chưa xong. Nhà sản xuất Michael Luceri đã “thực hiện sứ mệnh” để hoàn thành bộ phim thay cho Getty, và dự án đam mê tiêu tốn của Andrew Getty hàng triệu đô la tài sản cá nhân, cuối cùng đã được phát hành vào năm 2017.
Terrence Malick: con đường dài làm phim Voyage of Time
Người xem vẫn mong đợi hai điều từ Terrence Malick trong suốt sự nghiệp không chính thống và thu hút của ông. Thứ nhất, những bộ phim của ông sẽ luôn giống như những gì họ đã từng được xem. Thứ hai, người ta không biết ông sẽ mất bao lâu để thực hiện chúng hoặc thể loại của bộ phim. Điều đó đã đúng trong những năm qua, và là sự thật đối với bộ phim tài liệu Voyage of Time (Hành trình xuyên thời gian) của ông, một tham vọng cố gắng lập biểu đồ quá trình của sự sống và cái chết cuối cùng của toàn bộ vũ trụ của chúng ta.
Phim Voyage of Time bắt đầu được hình thành ý tưởng từ những năm 1970, nhưng nó vẫn chưa chính thức được đưa vào sản xuất mãi cho đến năm 2008. Malick đã bấm máy quay phim trong vài năm tiếp theo, đào sâu nghiên cứu và hợp tác với các nhà khoa học và các nghệ sĩ tạo kỹ xảo, ông xen kẽ công việc làm Voyage of Time với các dự án khác khi sự nghiệp làm phim của ông bị gián đoạn. Sau các vấn đề pháp lý với các nhà đầu tư, IMAX đã tham gia tài trợ cho Malick để hoàn thành bộ phim, và Voyage of Time cuối cùng đã được trình chiếu vào năm 2016. Thậm chí điều đó đã được chứng minh là khác thường, vì bộ phim không chỉ có một, mà có tới hai phiên bản: một phim dài được thuật lại bởi Cate Blanchett và một đoạn “trải nghiệm IMAX” dài 40 phút do Brad Pitt tường thuật.