Việt Nam giữa ngã ba đường
Mối quan hệ kinh tế EU – ViệtNamđược nhận định là tốt đẹp, có những bước tiến ổn định và ngày càng khởi sắc. Từ năm 2009, nhiều dự án của EU bắt đầu được đăng ký tại ViệtNam, chiếm 2,17% tổng số vốn FDI. EU hiện là một trong ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của ViệtNam(sau Mỹ và Trung Quốc). Đàm phán về tự do thương mại song phương giữa EU và Việt Nam đang được xúc tiến, hai bên đã cùng ký tắt Hiệp định Hợp tác và Đối tác năm 2012, bước đầu tiên để hướng tới mối quan hệ chính trị và kinh tế gần gũi hơn. ViệtNamđang từng bước củng cố vị thế và chữ tín trong lòng người bạn hàng có thị phần lớn nhất nhì thế giới này.
Bên cạnh đó, hợp tác kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng phát triển từ năm 2004 đến nay, đặc biệt sau khi ACFTA chính thức có hiệu lực. Theo TS Trần Đức Hạnh (Trung tâm Hỗ trợ hội nhập WTO TP.HCM), Trung Quốc hiện là thị trường xuất khẩu chủ lực của ViệtNam(chỉ xếp sau Mỹ, EU, Nhật Bản), chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, trong mối quan hệ với Trung Quốc, ViệtNamluôn phải cẩn trọng. Đứng trước nguy cơ bị trả đũa thương mại từ EU, Trung Quốc hẳn đã tính toán một “kế hoạch dự phòng”, nhằm tối thiểu hóa thiệt hại. Nếu Nghị viện Châu Âu thành công trong việc kêu gọi Ủy ban Châu Âu sớm đề ra những biện pháp tự vệ theo quy định của WTO thì các mặt hàng xuất khẩu từ Trung Quốc sang châu Âu có khả năng bị ngăn chặn. Trung Quốc có thể xuất khẩu lượng hàng đó sang ViệtNamnhư một cách để thanh lý, đồng thời lợi dụng mối quan hệ bạn hàng giữa ViệtNamvới EU để cùng một số doanh nghiệp ViệtNamđẩy lượng hàng đó qua EU dưới danh nghĩa sản xuất tại ViệtNam. Nếu EU biết được, rõ ràng hình ảnh “đối tác đáng tin cậy” mà ViệtNamđã và đang xây dựng sẽ bị đánh mất; nghiêm trọng hơn, EU có thể tiến hành trừng phạt thương mại đối với ViệtNam. Vô tình ViệtNamở vào thế bị vạ lây, nhất là khi việc xuất khẩu sang các nước EU còn khó khăn bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công cùng những rào cản phi thuế quan của thị trường này.
Gần đây đã có chuyện doanh nghiệp của ta “trúng đòn” trong cuộc chiến mậu dịch Mỹ – Trung. Cuối tháng 1-2012, Bộ Thương mại Hoa Kỳ quyết định mở cuộc điều tra về các loại tháp điện gió nhập khẩu từ nước ngoài bị nghi là bán phá giá vào thị trường Mỹ. Hai nước bị nêu tên là Trung Quốc và Việt Nam. Một hiệp hội gồm bốn doanh nghiệp Mỹ bị mất nhiều thị phần trong thị trường này đã đệ đơn tố cáo các doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam được trợ giá từ nhà nước, nên có thể bán với giá thấp giá thị trường hơn nhiều lần. Điều lạ là doanh nghiệp ViệtNamchưa bao giờ nổi tiếng có khả năng cạnh tranh cao trong lĩnh vực tháp điện gió. Nhiều khả năng doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu hàng Trung Quốc về, “biến hóa” thành của mình, sau đó xuất sang Mỹ. Trong thời điểm Mỹ đưa xuất khẩu lên làm quốc sách, chống phá giá sẽ là vũ khí lợi hại nhất để các nhóm sản xuất Mỹ vận dụng nhằm đánh vào hàng nhập khẩu lớn từ nước ngoài. Hàng Trung Quốc luôn bị theo dõi kỹ từ nhiều năm trở lại đây. Một mặt, chính quyền Obama vì quyền lợi chiến lược ở Đông Nam Á đang cố gắng xúc tiến trao đổi thương mại với ViệtNam. Mặt khác, việc (có thể) doanh nghiệp Việt làm “sân sau” cho các sản phẩm Trung Quốc đã khiến cho ta bị ngờ vực, bị dính vào những tranh cãi không đáng có, kiểu “quýt làm, cam chịu”.
Rõ ràng, sự vắng mặt hay giảm thiểu hàng hóa của Trung Quốc sau khi lệnh hạn chế ngoại thương của EU có hiệu lực có thể là cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu cho ViệtNam, nhất là khi ViệtNamvà EU đã khởi động vòng đàm phám thương mại tự do song phương. Nhưng một kịch bản tương tự như vụ kiện phá giá sản phẩm tháp điện gió có thể lặp lại, nếu chúng ta chấp nhận để hàng hóa Trung Quốc đội danh hàng sản xuất nước mình. Việc “liên kết” này dù trước mắt sẽ đem lại một chút lợi nhuận, nhưng tác hại lâu dài cho uy tín hàng hóa ViệtNamlà rất lớn. Cái cần lúc này của các nhà quản lý và doanh nghiệp nước nhà là một tầm nhìn dài hạn hơn là những con số được thua trước mắt.
Lê Trân – Nhân Văn