Các ngân hàng lớn của Mỹ trong ngày 15-10 đã công bố kết quả lợi nhuận trái ngược của quý III-2019 do các tác động từ sự điều chỉnh chính sách lãi suất.
Các ngân hàng lớn của Mỹ trong ngày 15-10 đã công bố kết quả lợi nhuận trái ngược của quý III-2019 do các tác động từ sự điều chỉnh chính sách lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và căng thẳng thương mại toàn cầu và chi tiêu tiêu dùng mạnh mẽ.
Ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị tài sản là JPMorgan Chase công bố lợi nhuận quý III-2019 tăng cao nhờ tín dụng tiêu dùng tăng trưởng mạnh cho dù Giám đốc điều hành (CEO) Jamie Dimon của ngân hàng này đưa ra đánh giá triển vọng thận trọng về kinh tế Mỹ một phần do những quan ngại về kinh tế giảm tốc bởi “thương chiến”.
JPMorgan thông báo lợi nhuận quý III-2019 đạt 9,1 tỉ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2018, trong khi doanh thu đạt 29,3 tỉ USD, tăng 7,3%.
Citigroup cũng công bố kết quả lợi nhuận tích cực trong quý III-2019, với lợi nhuận tăng 6,3% lên 4,9 tỉ USD và doanh thu tăng 1% lên 18,6 tỉ USD.
Theo CEO Citigroup Mark Mason, việc Mỹ và Trung Quốc đạt được một phần thỏa thuận thương mại là “một bước đi quan trọng” song hai bên cần duy trì tiến trình đàm phán để niềm tin của thị trường và các nhà đầu tư có thể phục hồi.
Ở chiều ngược lại, một ngân hàng lớn khác của Mỹ là Goldman Sachs công bố kết quả lợi nhuận ảm đạm do sự sụt giảm của lĩnh vực dịch vụ tư vấn chủ chốt.
Cụ thể, lợi nhuận của Goldman Sachs đạt 1,8 tỉ USD trong quý III-2019, giảm 26,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong khi doanh thu đạt 8,3 tỉ USD, giảm 5,6%.
Trong khi đó, Wells Fargo bị ảnh hưởng bất lợi do chi phí pháp lý tăng cao khi đang nỗ lực giải quyết một loạt vụ bê bối và các vấn đề về quản lý.
Theo Wells Fargo, lợi nhuận quý II-2019 của ngân hàng này giảm 23,3% so với cùng kỳ năm 2018 xuống còn 4,6 tỉ USD, với doanh thu chỉ tăng nhẹ lên 22 tỉ USD.
Các lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng thị trường việc làm của Mỹ sẽ tiếp tục mạnh mẽ song một số công ty đã trì hoãn kế hoạch đầu tư trước sự bất ổn thương mại.
Trong khi đó, những vấn đề khác khiến giới doanh nghiệp quan ngại bao gồm tiến trình đàm phán về việc Vương quốc Anh rời Liên minh châu Âu (EU), còn gọi là Brexit, vẫn bế tắc và tình trạng bất ổn chưa kết thúc ở Khu hành chính đặc biệt Hong Kong (Trung Quốc).