Quá trình tự tiến hành thử nghiệm các nghiên cứu y khoa trên chính mình vốn rất nguy hiểm đối với tính mạng của người thực hiện. Những báo cáo ghi nhận đã có không ít các nhà khoa học bị thiệt mạng vì quá trình này, nhưng điều đó vẫn không ngăn cản được những con người quả cảm. Sau đây là những câu chuyện như thế và các thành quả của họ đã cứu mạng cho rất nhiều người trong chúng ta.
John Hunter, nhà nghiên cứu bệnh STD
Bác sĩ người Scotland John Hunter bỏ học năm 13 tuổi có thể do những bất ổn trong học tập, theo Thư viện James Lind cho biết. Nhưng ông đã không để điều đó ngăn cản mình trở thành một trong những bác sĩ phẫu thuật được ca ngợi nhất ở London những năm 1700. Sau một thời làm một kẻ trộm mộ, thu gom các mẫu vật mổ xẻ cho trường y của anh trai mình, Hunter sẽ trở thành một giảng viên giải phẫu, một bác sĩ quân y và một nha sĩ. Ông đã đi tiên phong trong phẫu thuật cấy ghép răng, mua răng của những người nghèo và cấy chúng vào nướu không có răng cho giới quý tộc.
Nhưng Hunter được biết đến nhiều nhất với một thí nghiệm đáng ngờ mà ông cho biết là đã tự mình thực hiện. Vào những năm 1760, các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (Sexually Transmitted Diseases – STD) tràn lan ở London, và Hunter trở thành “ngân hàng chữa trị” đối với những người giàu có và nổi tiếng. Ông đã phát triển một giả thuyết rằng bệnh lậu thực sự là một giai đoạn đầu của bệnh giang mai và bắt đầu chứng minh điều đó. Cố ý tự lây nhiễm STD không phải là một ý tưởng tuyệt vời. Bác sĩ John liên hệ việc thực hiện với mẫu lấy từ một bệnh nhân thậm chí mắc cả hai bệnh. Người bị bệnh lậu mà Hunter lấy mẫu xét nghiệm cũng mắc bệnh giang mai; điều này chỉ khiến Hunter kết luận rằng ông đã đúng.
Ông quyết định điều trị những bệnh mà ông tự cho mình bị lây nhiễm. Điều đó liên quan đến việc chà xát thủy ngân độc hại lên người và cắt bỏ bất kỳ vết loét nào. Nhưng điều tệ nhất ở chỗ Hunter thậm chí vẫn không đúng: cả hai căn bệnh là do những nhiễm trùng riêng biệt.
Stubbins Ffirth nuốt chất nôn vì khoa học
Sốt vàng da là một căn bệnh khủng khiếp khiến người ta nôn ra mật đen và chết trên đường phố. Nhưng cho đến đầu những năm 1900, không ai biết nó được lây truyền như thế nào, đôi khi dẫn đến việc mọi người phải bỏ gia đình và chạy trốn để cứu mình khỏi bệnh dịch.
Điều đó đã thay đổi với sự trợ giúp của một số quá trình tự thí nghiệm kinh hoàng của Stubbins Ffirth, người chắc chắn rằng bệnh sốt vàng da không thể lây lan từ người sang người. Khi đang theo học ngành y tại Đại học Pennsylvania vào năm 1804, Ffirth đã viết một luận án có tên là “Luận thuyết về bệnh sốt ác tính”, nỗ lực chứng minh bản chất không lây nhiễm của nó, theo tiểu sử JAMA về ông. Luận án bắt đầu khá bình thường, ông đã trình bày chi tiết các thí nghiệm trước đây về bản chất của sự lây truyền bệnh sốt vàng da, bao gồm các thí nghiệm trên động vật đã được tiến hành vài năm trước đó.
- Xem thêm: Đường đi của xác hiến
Nhưng các thí nghiệm trên động vật không nhất thiết có thể lặp lại ở người. Và không một người lành mạnh nào đồng ý “tiêm, nuốt, hít, hoặc truyền chất bài dưới da từ người bị bệnh”.
Không thể có được tình nguyện viên, Stubbins đã tự tay mình giải quyết vấn đề, xoa chất nôn từ những người bị nhiễm bệnh vào các vết cắt trên cánh tay của mình, nhỏ giọt mật bị nhiễm bệnh vào mắt, và cuối cùng nuốt thẳng chất nôn đen từ một bệnh nhân … và ông đã hoàn toàn không sao cả. Hóa ra, bệnh sốt vàng lây truyền qua muỗi và hầu như không thể bị lây nhiễm khi tiếp xúc giữa người với người.
Werner Forssmann thí nghiệm trên trái tim của mình
Bệnh tim hoành hành trên hàng triệu người mỗi năm, nhưng trước thế kỷ 20 không ai thực sự biết cách đối phó với chúng. Năm 1896, một bác sĩ lỗi lạc thậm chí còn tuyên bố rằng bất kỳ tổn thương tim nào cũng đều hoàn toàn không thể chữa trị được. Bác sĩ người Đức Werner Forssmann không tin như thế. Ông cho rằng người ta có thể luồn một ống nhỏ vào tĩnh mạch, điều hướng đến tim và sử dụng ống đó để thông tắc nghẽn hoặc cung cấp thuốc thẳng đến tim.
Mọi người đều nghĩ ông bị điên. Năm 1929, khi mới 25 tuổi và vừa mới ra trường, Forssman tin chắc rằng mình đã hiểu rõ hơn. Ông ngọt ngào nói chuyện với y tá tiếp tế tại bệnh viện của mình về việc cho ông sử dụng một ống thông đủ dài để thực hiện thử nghiệm trên người. Sau đó, ông đã thuyết phục cô tham gia thử nghiệm của mình. Theo tờ The Hospitalist, sau khi Forssmann trói cô vào bàn để ngăn cô can thiệp, ông đã bắt tay vào công việc.
Forssmann đã luồn một ống thông vào cánh tay của mình và đưa nó vào trái tim của chính mình bằng cách sử dụng một chiếc gương để dẫn đường cho ông. Sau đó, ông đến phòng chụp X-quang để xem mình đã làm như thế nào, theo Classics in Thoracic Surgery. Luôn tìm cách vượt qua ranh giới của cả chẩn đoán và điều trị, Forssmann đã tự đặt ống thông vào người ông thêm sáu lần nữa. Năm 1956, ông đã giành được giải Nobel cho công việc của mình.
Barry Marshall tự gây vết loét cho mình và chữa lành
Gần đây, vào đầu những năm 1980 các nhà nghiên cứu vẫn còn tranh cãi về những gì gây ra loét. Theo LA Times, việc điều trị chủ yếu được giới hạn để giảm thiểu cơn đau của bệnh nhân. Mọi việc đã thay đổi với công trình tiên phong và có phần táo bạo của Tiến sĩ Barry Marshall người Úc. Marshall tin rằng vết loét là do vi khuẩn. Nhưng người ta vẫn tin chắc rằng không có vi khuẩn nào có thể tồn tại trong môi trường acid của dạ dày bạn.
Năm 1981, Marshall hợp tác với một nhà nghiên cứu bệnh học là Robin Warren, người đã tìm thấy vi khuẩn H. pylori trong ruột của những người bị loét nặng. Sau khi kiểm tra sinh thiết, cả hai tin rằng họ có thể điều trị vết loét bằng một đợt kháng sinh. Nhưng họ không thể chứng minh lý thuyết của mình với chuột trong phòng thí nghiệm và không thể thuyết phục bất cứ ai đồng ý cho các nghiên cứu trên người, vì những người có quyền lực chắc chắn sẽ nói rằng họ là những kẻ dở hơi.
- Xem thêm: “Lỡ tay” y tế kinh hoàng nhất
Năm 1984, Marshall đã quyết định thí nghiệm trên chính mình. Ông pha một ly cocktail H. pylori, uống nó và tự để mình cho ung nhọt hoành hành. 2 tuần sau, ông uống thuốc kháng sinh theo sự thúc giục của vợ và phép màu xảy ra: Không còn vết loét nữa. Năm 2005, với công trình tiên phong của họ, Marshall và Warren đã giành được giải Nobel.
Điều thú vị là Marshall đã nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2008 rằng ông được truyền cảm hứng để thử nghiệm trên chính mình một phần bởi John Hunter (nổi tiếng về bệnh giang mai).
Jack Barnes tự để cho sứa độc chích
Vào giữa thế kỷ 20, một căn bệnh bí ẩn đã cướp đi sinh mạng của những vận động viên bơi lội ở Úc. Trước đó không lâu, họ còn đi dạo xung quanh một cách khỏe mạnh. Sau đó, họ chết vì sốc tim. Những bệnh nhân đó vẫn còn may mắn, có những người đau đớn quá mức, kết hợp với cảm giác lo lắng về ngày tận thế, đến mức họ cầu xin bác sĩ giết họ, theo tờ Discover ghi nhận.
Sau đó, Jack Barnes đã nhập cuộc. Theo tờ Toxicon, người cựu biệt kích GP này không hề sợ hãi. Bị mê hoặc bởi các loài động vật biển có nọc độc từ lâu, Barnes kết luận rằng căn bệnh bí ẩn là do một loài có nọc độc không xác định gây ra. Sau nhiều năm tìm kiếm cuối cùng họ đã tìm được một thủ phạm nhỏ tuổi có khả năng là sứa hộp bốn xúc tu … mà Barnes đã kịp thời kiểm tra bằng cách để cho nó đốt anh, cậu con trai chín tuổi của anh và một nhân viên cứu hộ địa phương đã đi cùng trong một đêm săn sứa. Trong vòng 20 phút, cả ba người được đưa đến bệnh viện trong cơn đau quặn thắt. Bản tường trình của Barnes về các triệu chứng khá dữ dội.
Theo LITFL, căn bệnh này được đặt tên là hội chứng Irukandji, theo tên của một bộ lạc thổ dân trong khu vực nơi ban đầu phát hiện ra căn bệnh này. Ngày nay, những con sứa hộp vẫn đang gây nhức nhối cho mọi người từ Great Barrier Reef đến Hawaii khi chúng mở rộng phát triển sang lãnh thổ mới do hệ quả nóng lên toàn cầu. Tuy chưa có cách chữa trị, nhưng điều trị kịp thời bằng thuốc giảm đau opioid thường có thể ngăn ngừa tử vong.
Những vụ tự thử nghiệm vẫn còn tiếp tục đến ngày nay
Ngày nay, các hội đồng y đức và các phòng nghiên cứu của trường đại học vẫn kiểm soát chặt chẽ các thí nghiệm trên người, nhưng các nhà khoa học quả cảm vẫn liều mình tiến hành tự thử nghiệm trên chính bản thân họ. Theo một bài báo năm 2012, việc tự thí nghiệm trong y học đã giết chết một số nhà nghiên cứu trong thế kỷ 20 một cách đáng ngạc nhiên, khiến nó trở thành một đề xuất hấp dẫn kỳ lạ đối với các nhà nghiên cứu về biên giới khoa học.
Nhưng bác sĩ không phải là những người duy nhất tự thực hiện thí nghiệm. Từ những người thử nghiệm sinh học cơ bản theo dõi mọi chuyển động ruột của họ đến những người cấy ghép chip dưới da của họ, có rất nhiều người vẫn đang tự thử nghiệm. Theo báo cáo của tờ Scientist, chúng ta có thể sẽ thấy sự trỗi dậy của quá trình tự thử nghiệm vắc-xin sau cuộc khủng hoảng COVID. Tạp chí Công nghệ MIT đã phỏng vấn một nhóm “các nhà khoa học tự làm” đang thử nghiệm vắc-xin Covid-19 tiềm năng trên chính họ.