Ketubah (tiếng Do Thái có nghĩa là “những điều được viết ra”/ketubot) là một loại thỏa thuận tiền hôn nhân đặc biệt của người Do Thái. Ketubah được coi là một phần không thể tách rời của một cuộc hôn nhân truyền thống Do Thái, vạch ra các quyền và trách nhiệm của chú rể đối với cô dâu. Trong thực tế đương đại, ketubah không phải là những thỏa thuận về giá trị tiền tệ và không bao giờ bị thúc ép thực thi, ngoại trừ ở Israel.
1. Các giáo sĩ Do Thái thời cổ đại yêu cầu các cặp vợ chồng phải ký vào ketubah như một sự bảo vệ cho người vợ. Nó được thực thi như một sự thay thế mohar – cái giá mà chú rể phải trả cho cô dâu hoặc cha mẹ vợ và cho cuộc hôn nhân (như là giá trị của cô dâu). Ketubah đã trở thành một cơ chế theo đó món tiền do người vợ quyết định được trao trả trong các trường hợp khi cuộc hôn nhân chấm dứt, thậm chí cả khi người chồng qua đời hoặc ly hôn.
Mohar đã tạo nên một vấn đề xã hội quan trọng: đó là nhiều người chồng trẻ không có tiềm năng để nuôi dưỡng/xây dựng mohar vào thời điểm họ thường được mong đợi kết hôn. Vì vậy, để cho phép những nam thanh niên trẻ tuổi kết hôn, trong thực tế, các giáo sĩ Do Thái đã trì hoãn thời gian mà số tiền có thể sẽ phải trả đến khi họ có nhiều khả năng hơn. Cơ chế được thông qua và chấp nhận là cung cấp cho mohar một phần của ketubah.
Cả số tiền mohar và ketubah đều có cùng mục đích: Đó là sự bảo vệ để cho người vợ có được sự hỗ trợ khi cuộc hôn nhân chấm dứt. Sự khác biệt duy nhất giữa hai loại này là thời điểm thanh toán. Quyền được hưởng cấp dưỡng trong trường hợp ly hôn là một tương đương thế tục đương đại. Ngoài ra, một chức năng khác là số tiền ketubah phải trả có thể làm nản lòng người chồng khi suy tính ly hôn vợ.
Hơn 200 ketubot đã được phát hiện trong số các bản thảo viết tay khác ở Cairo Geniza. Chúng có niên đại giữa thế kỷ 6 và thế kỷ 19, trong đó bao gồm nhiều văn tự đơn giản, có những văn tự sử dụng các hình vẽ trang trí trong dạng thức sử dụng chữ Do Thái để tạo hình tượng trưng nên các dạng thức hình học và đồ án trừu tượng thường được thể hiện với màu đen và trắng hay sơn son thiếp vàng, hoặc màu sắc rực rỡ được tô vẽ rất trau chuốt, tinh vi.
Một số kiểu loại ketubah truyền thống
2. Nội dung của ketubah về bản chất là một giao kèo/khế ước một chiều chính thức hóa các yêu cầu khác nhau của đạo luật Do Thái/Halakha về trách nhiệm cùa một người chồng Do Thái đối với người vợ của mình. Người chồng Do Thái tự đề ra nghĩa vụ của chính mình trong ketubah: đó là nghĩa vụ mà một người chồng phải thực hiện cho vợ mình với 3 khoản chính là: quần áo, thực phẩm và quan hệ vợ chồng/hôn nhân, cũng như người chồng sẽ phải trả cho người vợ của mình một khoản tiền được dự tính trong trường hợp ly hôn.
Vì vậy, nội dung của ketubah về cơ bản là tuyên bố đảm bảo và bảo vệ người phụ nữ cùng với các quyền của người vợ trong hôn nhân. Những người Do Thái bảo thủ thường thêm vào một đoạn phụ chú, gọi là điều khoản Lieberman, quy định rằng việc ly hôn sẽ được tòa án luật pháp Do Thái đương đại xét xử (beth din) để ngăn chặn việc hình thành nên một người vợ bị ràng buộc bởi các qui định truyền thống).
3. Người con gái của một vị giáo sĩ Do Thái, người nắm giữ một vị trí đặc biệt bị chi phối bởi các quy định đặc biệt trong kinh Cựu Uớc và các văn bản giáo sĩ Do Thái.
Ghi chép của Mishna và Talmud Bavli cho rằng “Ketubah đối với người con gái của một vị giáo sĩ Do Thái giáo sẽ được khế ước với số lượng 400 Zuz (tăng từ mức tiêu chuẩn thông thường lên đến 200 Zuz) trong trường hợp ly hôn, người phụ nữ này sẽ nhận được một hóa đơn ly hôn – với số tiền gia tăng tương ứng với họ và đây không được xem như một món tiền thưởng”.
- Xem thêm: Tạo sự bền vững cho mối quan hệ vợ chồng
Talmud Yerushalmi cho rằng người con gái của vị giáo sĩ Do Thái giáo nếu kết hôn với một người không phải là giáo sĩ Do Thái giáo thì sẽ nhận được số tiền tiêu chuẩn 200 Zuz, như là một hình phạt cho việc không kết hôn với đại gia đình to lớn của cộng đồng giáo sĩ Do Thái giáo.
Dựa trên nghiên cứu của A. Epstien, trong tác phẩm Toldot HaKetubah B’Yisrael, ghi chép về 400 Zuz trong Ketubah của người con gái của vị linh mục Do Thái giáo cũng có hiệu lực trong suốt thời kỳ Amora, nhưng từ đó trở đi, không đề cập đến số lượng tăng lên được tìm thấy trong các nguồn của giáo sĩ Do Thái giáo.
Một số kiểu loại ketubah đương đại
4. Ketubah là một hình thức phổ biến quan trọng của nghệ thuật nghi lễ của người Do Thái. Ketubot có một loạt các thiết kế, thường theo các thị hiếu và phong cách của thời đại và khu vực/vùng mà họ sinh sống. Nhiều cặp vợ chồng theo truyền thống hiddur mitzvah/tuân thủ điều răn thiêng liêng của Do Thái giáo kêu gọi các đối tượng thực hành nghi lễ như ketubah được thể hiện đẹp nhất có thể.
Ketubot truyền thống không được viết bằng ngôn ngữ Do Thái, nhưng trong tiếng Aram, ngôn ngữ cầu nối của người Do Thái vào thời điểm ketubot đã được chuẩn hóa. Điều này đã được thực hiện để đảm bảo rằng cô dâu và chú rể hiểu được giao kèo/khế ước đã được ký kết. Nhiều ketubot đương đại dịch sang tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ bản địa khác hoặc đi kèm một văn bản tiếng địa phương. Nhiều người Do Thái bảo thủ và người Do Thái không chính thống sử dụng ketubot được viết bằng tiếng Do Thái hơn là tiếng Aram. Những người khác có thể sử dụng ketubot bằng ngôn ngữ Aram nhưng cũng có thêm một phiên bản chính thức bổ sung bằng ngôn ngữ Do Thái.
Trong những năm gần đây, kettubot đã có sẵn trong một loạt các định dạng cũng như các văn bản Aram truyền thống được sử dụng bởi các cộng đồng Do Thái chính thống giáo. Các văn bản có sẵn bao gồm văn bản bảo thủ, sử dụng các mệnh đề/điều khoản, sửa đổi/cải cách văn bản phụ chú, chủ nghĩa quân bình và những người có tín ngưỡng khác nhau. Một số giáo đoàn với những văn bản sẵn có này cho cả các cặp vợ chồng đồng giới…
5. Trong một hôn lễ truyền thống của người Do Thái, ketubah được hai nhân chứng ký kết và truyền thống đọc to nó khi cô dâu-chú rể đứng dưới cổng/rạp cưới. Gia đình, bạn bè hoặc người thân xa gần đều được mời đến để làm chứng cho ketubah; điều này được coi là một sự vinh dự. Hai nhân chứng phải là người làm chứng hợp pháp, tức không thể là người có họ hàng máu mủ với cặp đôi. Trong Do Thái giáo chính thống, người phụ nữ cũng không được coi là nhân chứng hợp pháp. Sau đó, ketubah được trao cho cô dâu để cất giữ cẩn thận.
Ketubot thường được treo trong nhà của các cặp vợ chồng như nhắc nhở hàng ngày về lời thề nguyện và trách nhiệm của họ với nhau. Tuy nhiên, trong một số cộng đồng, ketubah được trưng bày trong một khu vực rất riêng tư của ngôi nhà hoặc không bày biện ở bất cứ đâu. Nhiều lý do được đưa ra trên thực tế là các ví dụ cụ thể của cá nhân, ketubah được trưng bày nổi bật có thể mời gọi sự ghen tuông hoặc sợ hãi của mắt quỷ. Trong lịch sử, ketubah đã chỉ định liệu cô dâu có phải là một trinh nữ hay không. Trong cộng đồng người Sephardic, nó vẫn xác định những đóng góp thực tế của gia đình cho hộ gia đình mới và tài sản sau ly hôn; cộng đồng Ashkenazi cũng chấp nhận phong tục đặt tiền cho tất cả các đám cưới.
Theo luật pháp Do Thái, vợ chồng bị cấm sống chung với nhau nếu ketubah đã bị phá hủy, mất mát hay không thể cứu vãn. Trong trường hợp như vậy, một ketubah thứ hai được tạo lập (gọi là Ketubah De’irketa), trong đó tuyên bố trong cụm từ mở đầu của nó rằng nó sẽ thay thế cho ketubah trước đó đã bị mất đi.