Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, là con thứ 2 của Hoàng đế Thiệu Trị, thân mẫu là bà Phạm Thị Hằng (sau được tôn phong là Thái hậu Từ Dũ). Tháng 10, năm 1847, vua Tự Đức lên ngôi ở điện Thái Hòa năm 19 tuổi. Cuộc đời làm vua của Tự Đức là một bi kịch của cá nhân và cũng là bi kịch của lịch sử đất nước.
Theo Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỷ, quyển 1, mặt khắc 1, kể lại rằng sinh thời vua Tự Đức ra đời trong giấc mơ kỳ lạ của Thái hậu Từ Dũ: “Mẹ là Từ Dũ Bác Huệ Khang Thọ thái thái hoàng thái hậu, Phạm Đăng Thị. Trước đây bà chiêm bao thấy một vị thần, mặc áo rộng thắt đai to, đầu râu, tóc bạc, mang một tờ giấy vàng viết chữ son có đóng dấu ngọc và một chuỗi hạt minh châu trao cho. Vua sinh ra, đúng ứng vào điềm ấy”.
Vua Tự Đức cùng các anh em trong hoàng tộc lớn lên trong sự dạy dỗ cẩn thận của Hoàng đế Thiệu Trị. Đến tuổi trưởng thành, theo thông lệ truyền thống, người kế vị ngôi báu là Hoàng tử trưởng của vua, thế nhưng với vị vua thứ 3 của triều Nguyễn thì đây lại là nỗi khổ tâm và lo lắng lớn. Người con trưởng là Hoàng tử Nguyễn Phúc Hồng Bảo, lười biếng, thiếu tài năng, kém đức hạnh, chỉ ham chơi bời, ca xướng; mặc dù được vua cha quan tâm, nhắc nhở nhưng vẫn chứng nào tật đấy, không chịu thay đổi, sửa chữa gì.
Thậm chí, khi nhà vua lâm trọng bệnh, trong lúc các hoàng tử, hoàng thân, đại thần lo lắng túc trực bên long sàng thì riêng Hồng Bảo lại vắng mặt bởi đang mải mê ở chốn ca lâu. Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỷ, quyển 1, mặt khắc 1, cũng nói về Hồng Bảo như sau: “Khi ấy Yên Phong công là Hồng Bảo tuy đã lớn nhưng là con vợ thứ lại ít học, chỉ ham vui chơi”.
Trái ngược với Hoàng trưởng tử, vua Thiệu Trị lại hết sức yêu mến Hồng Nhậm, hằng ngày quấn quýt bên cạnh, không rời. Mộc bản triều Nguyễn cho biết: “Hiến tổ Chương hoàng đế cho là giống tính mình yêu mến khác thường, hằng vâng đặc Chỉ gọi vào chầu dạy lấy đạo học của đế vương, và việc cấy gặt khó nhọc của nhân dân. Hoặc có khi rảnh việc ngồi ngay đấy mà ngâm vịnh nối theo, cầm bút viết xong ngay, thường được ban khen bằng bài thơ”.
Khi sắp mất, biết không thể phó thác trọng trách lớn lao cho người con trưởng Hồng Bảo được. Vào ngày Quý Tỵ (17), bấy giờ vua Thiệu Trị đã cho truyền gọi các đại thần là Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp vào trối trăng kỹ càng và có lời di huấn rằng: “Ta nối nghiệp lớn đã 7 năm, ngày đêm lo lắng không dám thong thả vui chơi, mấy lâu se mình, hôm nay mệt lắm! Ta lo nghiệp lớn của tổ tiên phó thác, nên phải chọn người nối nghiệp để yên xã tắc. Trong mấy người con của ta, Hồng Bảo tuy lớn nhưng là thứ xuất (con vợ thứ), mà lại ngu độn, ít học, chỉ ham chơi, nối nghiệp không được. Có thứ hai là Phước Tuy công, thông minh, ham học, giống như ta, đáng nối nghiệp vua. Hôm trước ta đã phê vào tờ di chiếu để lại trong long đồng. Các ngươi phải tuân theo đó, đừng trái mệnh ta”.
Các đại thần đều cúi đầu vâng mệnh. Sau đó, vua Thiệu Trị cho gọi con thứ là Phước Tuy công Nguyễn Phúc Hồng Nhậm vào trao cho ấn, kiếm. Nghe tin đó, Hồng Bảo vội cưỡi ngựa dẫn theo thân binh của mình kéo đến hoàng cung, quan Tham tri bộ Lại là Phạm Thế Lịch đem 3.000 quân hổ bôn giữ cửa Ngọ Môn ngăn lại.
Khi Hồng Bảo đến cửa Ngọ Môn, có lệnh truyền ra nói rằng chỉ cho một mình vào trong cấm điện. Đến nơi, Hồng Bảo quỳ trước giường vua khóc mà nói: “Thánh thượng đã hứa truyền ngôi cho con, ai cũng công nhận con là Thái tử. Nay con phạm tội bất hiếu, xin ơn trời lượng bể tha cho”. Vua Thiệu Trị buồn rầu phán rằng: “Thiên hạ là của đức Cao hoàng (Gia Long), kế đến đức Thánh Tổ (Minh Mạng) truyền lại cho ta. Ta đã định truyền cho ngươi, thường khuyên ngươi tu tỉnh, thế mà ngươi cờ bạc, hát xướng. Thần khí rất trọng, ta không thể lấy tình riêng mà bỏ nghĩa chung được”. Thấy Hồng Bảo vẫn nấn ná, khóc lóc quỳ lạy bên giường ngự, Phạm Thế Lịch và Võ Văn Giải đưa mắt lệnh cho quân ngự lâm bắt Hồng Bảo giam vào hậu cung.
10 ngày sau (tức ngày 27) tháng 9, năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà tại điện Cần Chánh, thọ 41 tuổi. Triều đình đặt thụy hiệu cho vua là “Thiệu thiên Long vận Chí thiện Thuần hiếu Khoan minh Duệ đoán Văn trị Vũ công Thánh Triết Chương Hoàng đế”, miếu hiệu là Nguyễn Hiến Tổ.
Ngày Mậu Thân, Hồng Nhậm đem việc lên ngôi, thân đến khấn trước bàn thờ Đại Hành hoàng đế (tức vua Thiệu Trị), rồi sai quan kính cáo đàn Nam Giao, Thái Miếu, Dao Cung và Xã Tắc, báo về việc chuẩn bị lên ngôi vua. Đến ngày Kỷ Dậu, ở điện rồng Thái Hòa, vua Tự Đức lên ngôi Hoàng đế, lấy năm Mậu Thân làm năm Tự Đức thứ nhất và ban 25 điều thi ân, chiếu xuống cho thiên hạ rằng: “Ta nghĩ: Hoàng thiên giúp nên đức mà mệnh lớn trao cho, vương giả thể theo trời mà đạo vua dựng đặt. Vì là: ngôi vua rất trọng, truyền cho con cũng như truyền cho người hiền; lịch số có phần, chính ngôi tôn cốt phải chính ngay buổi mới… Kính được khi Tiên đế tựa kỷ ngọc nói ra mệnh lệnh cuối cùng, dự làm sẵn chước lớn cho xã tắc. Châu phê vào tờ di chiếu, truyền cho được nối ngôi tôn. Ta đương lúc đau xót bối rối trong lòng, chùn bước giẫm đất, cúi mình kêu trời xót nỗi vin cung không kịp; giao cho việc khó để lại nghiệp lớn, những lo cáng đáng khó lòng. Hoàng thân, tôn nhân phủ và phụ chính đại thần, văn võ trăm quan, tuyên đọc di chiếu, dâng biểu khuyên mời lên ngôi, cho là lòng người tất phải có sở thuộc, ngôi trời không thể bỏ không lâu. Bèn dưới theo lòng người, trên tuân thánh mệnh, đã vào ngày mồng 2 tháng 10 năm nay kính cáo Trời, Đất, Miếu xã và Dao Cung, thỉnh mệnh trước bàn thờ Tiên đế, lấy ngày mồng 3 là ngày Kỷ Dậu lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa.
Sau khi đã lên ngôi báu, đối với anh cả Hồng Bảo, vua Tự Đức vẫn giữ một lòng yêu thương, nhân từ. Theo như ghi chép của Mộc bản triều Nguyễn, thì trung bình mỗi năm, ngoài tiền lương ra, vua Tự Đức thưởng thêm cho Hồng Bảo 500 quan và 500 phương gạo nữa. Đối với việc tế tự ở các miếu, những khi vua bận việc, Tự Đức cũng đều cho anh cả tế thay mình. Không chỉ đối tốt với anh, vua Tự Đức cũng rất có hiếu với mẹ ruột Hồng Bảo. Vào năm Nhâm Tý (1852), vua Tự Đức dựng đền thờ chu đáo cho Quý Tần là mẹ đẻ của An Phong công Hồng Bảo.
Tuy nhiên, thay vì cảm kích tấm lòng của người em trai và cố gắng sửa đổi tính nết thì Hồng Bảo lại mang trong mình hiềm khích, đố kỵ lớn. Năm Giáp Dần (1874), An Phong công Hồng Bảo mưu khởi nghịch, rồi tự thắt cổ ở nơi giam. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỷ, quyển 10, mặt khắc 5, 6, ghi rõ việc này như sau: “An Phong công là Hồng Bảo mưu khởi nghịch, rồi tự thắt cổ ở nơi giam… Trước đây, Hồng Bảo vì không được lập lên làm vua, nên để lòng mưu phản, toan thông ngầm với người Tây dương. Việc bị phát giác, nhưng vua vẫn ưu đãi, khoan dung cho Hồng Bảo. Đến năm ngoái, Hồng Bảo lại ngầm sai thuộc hạ ở phủ là Trần Tuấn Đức thông ước với nước Cao Miên nổi loạn. Kinh lược đại sứ là Nguyễn Tri Phương bắt được Đức giải về Kinh, tra xét quả là sự thực, Hồng Bảo tự tử ở nơi giam. Vua ra lệnh bắt đổi Bảo là họ Đinh và Bật đổi là họ Phan (đều là theo họ của mẹ)”.
Vua Tự Đức ở ngôi tổng cộng 36 năm (1847-1883), lâu nhất trong số 13 vua triều Nguyễn.