Truyện ngắn của Saki (Anh)
Đón khách là một cô gái xinh xắn, tuổi độ trăng tròn, trông rất tự tin: “Dì tôi sắp xuống. Trong khi chờ đợi, hẳn anh phải chịu đựng tôi thôi”.
Framton Nuttel cố tìm một đề tài thú vị để tạo một không khí vui vẻ trước cô gái vừa “đánh phủ đầu” anh, đồng thời tránh đề cập người dì vắng mặt. Anh càng lúc càng cảm thấy những cuộc gặp gỡ những người xa lạ mang tính xã giao này không phù hợp với mục đích khiến anh về vùng quê hẻo lánh này: sống trong một môi trường yên tĩnh để giải tỏa sự căng thẳng.
Anh vẫn nhớ lời chị dặn dò khi anh soạn hành lý: “Rồi em sẽ chết buồn ở đó, không tìm ra một người để trò chuyện. Chị sẽ giới thiệu em với những người chị quen biết. Họ đều là người tử tế”. Thế nên hôm nay, Framton Nuttel đến thăm bà Sappleton, cằm theo thư giới thiệu của chị. Cô cháu phá tan sự im lặng:
– Anh quen nhiều người ở đây không?
– Tôi chẳng biết ai. Chị tôi từng sống ở đây, tại tu viện, cách nay 4 năm. Chị ấy bảo tôi đến gặp những người quen cũ cùng với thư giới thiệu.
– Vậy anh biết gì về dì tôi?
– Chỉ tên và địa chỉ.
Anh tự hỏi không biết bà Sappleton đã kết hôn hay ở góa vì không một đồ vật gì cho thấy sự hiện diện của một người đàn ông trong ngôi nhà.
Cô cháu hạ giọng, như muốn tâm sự:
– Một biến cố bi thảm đã xảy ra cách đây đúng 3 năm, sau khi chị của anh rời vùng này…
– Một biến cố bi thảm ư?
Framton Nuttel nhắc lại, vẻ bất ngờ. Một sự cố thảm khốc tại vùng quê yên tĩnh này, thật quá lạ lùng!
– Có lẽ anh thắc mắc tại sao chúng tôi lại để cửa kia mở rộng vào một xế trưa tháng 10? (Cô cháu chỉ cái cửa trông ra bãi cỏ, 2 cánh cửa kính mở rộng).
– Trời khá nóng vào thời kỳ này trong năm. Nhưng cái cửa ấy liên quan gì đến biến cố?
– Vào ngày này cách đây 3 năm, dượng tôi và 2 em trai ra khỏi nhà từ cửa ấy để đi săn. Họ không bao giờ trở về. Khi băng qua truông để đến vùng có nhiều chim dẽ, cả ba bước phải chỗ đất lún và đều bị vùi trong đầm lầy. Anh biết đấy, mùa hè rất ẩm ướt, đất vẫn chắc vào những năm trước đó, bỗng dưng đây đó xuất hiện những khoảng đất lún. Không ai tìm ra xác của họ. Nhưng có một điều còn kinh khủng hơn (giọng cô gái mất vẻ tin chắc, trở nên run rẩy vì xúc động) người dì tội nghiệp của tôi vẫn luôn tin rằng chồng và các em chồng sẽ trở về, cả con chó nâu lông xù, và họ sẽ vào nhà qua cửa này như thông lệ; vì vậy, cửa này mở suốt ngày, cho đến tận đêm. Tội cho dì tôi! Dì vẫn luôn nhắc đến khoảnh khắc cuối cùng của 3 người thân yêu ấy, dượng với chiếc áo mưa trắng vắt qua cánh tay, còn Ronnie, đứa em nhỏ nhất, hát nghêu ngao: “Bertie, Bertie, nàng đi về đâu?”, thói quen của nó để chọc dì tôi vì bài hát ấy khiến dì nổi nóng. Anh biết không, vào những tối yên tĩnh như hôm nay, đôi khi tôi cũng tin rằng họ sắp sửa vào nhà qua cửa này.
- Xem thêm: Truyện ngắn: Dây xích
Cô gái rùng mình, ngưng lời. Framton cảm thấy nhẹ lòng khi người dì bước vội vào, bối rối xin lỗi vì đã để khách đợi lâu. Bà hỏi: “Vera có chọc ghẹo gì cậu không? Con bé tính hay đùa”.
– Cô ấy nói chuyện rất thú vị.
Bà Sappleton nói nhanh, vẻ hào hứng:
– Tôi hy vọng cái cửa mở này không làm phiền cậu. Chồng tôi và các em sắp trở về, chỉ vài phút nữa thôi. Họ luôn vào bằng cửa này. Họ đi săn trong đầm lầy. Đi săn là cái thú của họ.
Câu chuyện của bà Sappleton cứ thế lan man. Từ chuyện đi săn sang chuyện các lòai chim ngày càng hiếm, số vịt về mùa đông. Thật hãi hùng đối với Framton. Anh gắng sức hướng cuộc nói chuyện sang một đề tài khác, nhưng không mấy kết quả. Nữ chủ nhân xem ra không mấy quan tâm đến khách. Bà luôn nhìn về phía cửa và bãi cỏ. Đúng là một sự trùng hợp xui xẻo khi anh đến thăm bà đúng vào dịp tưởng nhớ cái ngày bi thảm xảy ra 3 năm trước. Anh gắng tiếp tục câu chuyện.
– Các bác sĩ đều bảo rằng tôi nên nghỉ ngơi hoàn toàn, tránh xúc động và cả những hoạt độâng thể lực mạnh.
Các từ được anh thốt ra một cách chậm chạp, khó nhọc. Framton tự nhủ: những ngưới mới quen thường muốn biết, một cách chi tiết, về những trục trặc sức khỏe của ngưới đối thoại, nguyên do và phương thuốc chữa trị. Anh nói tiếp:
– Nhưng về chế độ ăn, các bác sĩ lại có ý kiến khác nhau.
– Thế ư?
Nữ chủ nhân trả lời lấy lệ, có vẻ như để tránh một cái ngáp, bỗng bà chợt tỉnh, kêu to, mừng rỡ:
– Họ về kìa, vào đúng giờ dùng trà. Trời ơi, bùn bắn đến tận mắt!
Framton Nuttel run rẩy, liếc nhìn cô cháu với ánh mắt thông cảm. Cô gái chăm chăm nhìn cửa, vẻ sợ hãi. Framton đờ người vì sợ, hướng mắt theo.
Ba bóng đen hiện lờ mờ trong màn đêm vừa buông xuống, băng qua bãi cỏ, hướng về phía cửa. Cả ba đều súng đeo vai, một áo mưa trắng vắt trên vai một. Một con chó tai cụp, mệt mỏi, chầm chậm theo sau. Khi ba bóng đen đến gần nhà, một giọng nam trẻ, khàn khàn cất lên: “Bertie, Bertie, nàng đi về đâu…”.
Framton Nuttel chụp cây gậy và chiếc mũ lao ra cửa, băng qua lối đi sỏi, cửa rào như một mũi tên bắn. Một người đi xe đạp phải né gấp vào hàng rào để tránh va phải anh.
Người đàn ông mang chiếc áo mưa trắng thở phào khi bước vào:
– Đến nhà rồi. Vấy bùn, nhưng bùn khô rồi. Ai chạy như bị ma đuổi vậy?
– Một anh chàng Nuttel nào đó. Cậu ta thật kỳ lạ, kể lể tình trạng khó ở, rồi đột nhiên bỏ chạy, không một lời từ giã hay xin lỗi.
Cô cháu giải thích, vẻ bình thản:
– Anh ta hành động lạ lùng như vậy chắc vì thấy con chó. Anh ta kể với cháu rằng rất sợ chó vì từng bị một đàn chó hoang rượt đuổi trong một nghĩa trang, bên bờ sông Hằng. Và anh ta phải qua đêm trong một ngôi mộ mới đào, phía trên là bầy chó giận dữ, sùi bọt mép, nhe răng trăng nhởn đe dọa anh ta. Hoạt cảnh trên đủ làm khiếp hãi bất kỳ ai, đúng không?
Dựng truyện như tiểu thuyết chỉ trong một thời gian rất ngắn là “chuyên môn” của cô nhỏ này.
- Xem thêm: Prada và Sự thật
Hector Hugh Munro, bút danh Saki, chào đời năm 1870 ở Miến Điện (nay là Myanmar). Mồ côi mẹ ở tuổi lên 4, cậu bé được đưa sang Anh, sống dưới sự bảo trợ của các dì. Thời thơ ấu thiếu tình thương của mẹ in dấu bàng bạc trong các tác phẩm của ông. Ông lấy bút danh Saki dựa theo một nhân vật trong tác phẩm của nhà thơ Ba Tư Omar Khayyam. Sau một thời gian phục vụ trong quân cảnh Ấn Độ, Saki mắc bệnh sốt rét, buộc phải trở về châu Âu, rồi chu du nhiều nơi trên lục địa này trong cương vị phóng viên của tờ Morning Post. Ông qua đời ở Beaumont-Hamel (Pháp) năm 1916 sau một cơn sốt.