Ngày 28-12-1895, lần đầu tiên nhân loại biết đến máy chiếu phim – một phát minh kỳ diệu của L. Lumière, người Pháp.
Nghệ thuật điện ảnh du nhập vào nước ta từ bao giờ? Khác với những gì đã công bố, nay từ tài liệu mới nhất, ta biết, chỉ ba năm sau, người Sài Gòn đã được thưởng thức một loại hình nghệ thuật mà thời ấy gọi “trò chớp bóng” hoặc “hát hình máy”.
Lần đầu tiên, ngày 6-10-1898, bộ phim Yêu tinh râu xanh được chiếu tại địa điểm trước nhà quan Tổng đốc Chợ Lớn (nay đường Lê Quang Liêm).
Trải theo năm tháng, nhiều rạp chiếu bóng lần lượt ra đời. Các bộ phim chiếu rạp, chủ yếu nhập từ Pháp. Mãi đến thập niên 1920, các đạo diễn người Pháp mới thực hiện những bộ phim lấy chất liệu, bối cảnh từ Việt Nam.
Trong số đó, không thể không kể đến bộ phim truyện Kim Vân Kiều do Công ty phim và Chiếu bóng Đông Dương thực hiện. Phim này được thực hiện với nghệ sĩ, trang trí, trang phục hoàn toàn Việt Nam do rạp hát An Nam Quảng Lạc (Hà Nội) đảm nhiệm.
Ta hãy đọc lại một đoạn trong bài quảng cáo cho bộ phim đã nộp lưu chiểu tại Thư viện Quốc gia vào ngày 7-10-1924, sau khi tóm tắt cốt truyện: “Nhà làm phim phải xếp lớp lựa cách dùng cho hợp nghề chớp bóng, nhiều cảnh theo thơ trong truyện mà kể thì rất là hay để vào chớp bóng thì không thể nào coi đặng, nên phải bớt đi mà lại phải thêm ra ít nhiều.
Tuy rằng làm đúng như nguyên truyện, song chớp lược như các cảnh kể ở trên này cũng đủ khiến cho người ngồi xem động lòng mủi dạ, giọt lệ khôn cầm, thương thay cho khách hồng nhan bạc phận. Lần này là lần chớp truyện An Nam, người An Nam đóng trò, thật là phim ảnh có một không hai ở Đông Pháp này vậy”.
Nhận thấy nhiều nguồn lợi từ phim ảnh và nhất là nhận thức đây cũng là công cụ hữu hiệu tuyên truyền, quảng bá văn hóa, do đó, một tầng lớp trí thức trẻ người Việt đã mạnh dạn đầu tư vào điện ảnh.
Một đồng kẽm tậu được ngựa là bộ phim đầu tiên do người Việt thực hiện. Đó là ông Nguyễn Lan Hương chủ hiệu ảnh Hương Ký tại Hà Nội tự viết kịch bản, quay phim, dựng phim, chỉ dài 6 phút, nhại theo truyện ngụ ngôn Cô nàng Perrette và bình sữa của La Fontaine. Sau một vài bộ phim khác nữa, không rõ vì lý do gì, ông Hương từ giã nghề làm phim trở về nghề nhiếp ảnh.
Nhìn chung, thời điểm này, người Việt chưa tạo ra một dấu gì đáng kể khi tiếp cận nghệ thuật thứ 7.
Phải đợi đến năm 1936, lúc bấy giờ tình hình chính trị ở Đông Dương “dễ thở” hơn với thắng lợi của chính phủ Bình dân tại nghị trường nước Pháp đã “cỏi trói” cho nhiều chính sách ở các nước thuộc địa, trong đó có văn hóa.
Tại Hà Nội, các trí thức trẻ Nguyễn Doãn Vượng, Đàm Quang Thiện, Nguyễn Dương, Nguyễn Phổ, Nguyễn Xuân Hiệp… đã đứng ra thành lập An Nam nghệ sĩ đoàn – với tinh thần yêu nước, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Họ có khát vọng thực hiện cho bằng được “phim Việt Nam hoàn toàn do tài tử Việt Nam đóng, nói tiếng Việt Nam”.
Sau khi hoàn thành Cánh đồng ma, được xem là kịch bản văn học chỉnh chu nhất cho đến thời điểm đó, về sau, năm 1937, Lạc Hồng thư xã có in thành sách.
Về cốt truyện Cánh đồng ma, Đàm Quang Thiện tóm tắt: “Nơi được gọi Cánh đồng ma là mảnh đất hoang gần hồ Bảy Mẫu, bây giờ là đường Kinh lược Hoàng Cao Khải.
Tại đây vào những năm 1930 đã xảy ra nhiều vụ án mạng, trong đó có năm người bị ám sát. Sở Mật thám Pháp dù đã lấy được vân tay của kẻ sát nhân, vẫn không bắt được nó. Giáo sư Hoàng Tố Nguyên bằng cách phân tích tâm lý bệnh nhân, đã tìm ra thủ phạm”. Chủ đề của phim này là nhằm “đưa ra luận thuyết về khoa học và di truyền”, thông qua nhân vật Hùng.
Ta thử đọc qua đôi đoạn trong Cánh đồng ma, hầu có thể biết thêm đôi nét về một kịch bản phim có tính cách mở đầu do người Việt thực hiện. Đây là phần mở đầu tại nhà thương Phủ Doãn:
Phòng gác, về buổi chiều. 17 giờ.
Trên màn ảnh đứng lặng lẽ một giáo sư phẫu thuật (professeur d’anatomy), trạc 55 tuổi, mặc áo phủ ngoài (blouse) trắng, đội mũ vải trắng, tay cầm dao mổ (scalpel), tay trái cầm kẹp (pincer). Giáo sư nhìn thẳng, nét mặt nghĩ ngợi, nghiêm trang.
Hai tay để trên bụng một cái cái xác đóng trên một miếng gỗ dài, để trên một cái bàn mặt kẽm như những xác ta thường thấy ở nhà mổ (institut Anatomique). Cái xác đã mổ ở nách (région axillaire disséquée), có dây gai và móc giăng ra tứ phía.
Chung quanh giáo sư là học sinh trường Thuốc, mặc áo phủ ngoài trắng, đội mũ trắng như giáo sư, và người nào cũng nhìn thẳng, vẻ mặt tươi nhưng lặng lẽ.
Hình giáo sư và học sinh ở từng trước (premier plan), dần dần lùi về từng sau (deuxième plan), càng lùi càng nhỏ đi, thì chung quanh hình đó ta thấy một cái khung, và ta nhận ra đó chỉ là một bức anh chụp giáo sư và học sinh ở nhà Mổ, phóng đại và treo trên tường.
Hình đầu tiên cứ lùi mãi vào từng sau, thì ở từng trước dần dần hiện ra cả bức tường có treo bức ảnh ấy, rồi đến hai học sinh trường Thuốc, mặc áo phủ ngoài trắng, đứng quay mặt vào bức ảnh, vừa đi về phía trước vừa nói chuyện với nhau.
Cứ theo hai học sinh, ta thấy giữa phòng gác, trước bức ảnh phóng đại có cái bàn hình bầu dục, mỗi bên có một cái ghế. Trên bàn: ấm chén, vài tờ báo.
Hai đầu phòng có hai chiếc giường. Hai học sinh đi mỗi người ngồi một bên bàn rồi ra cửa phòng gác. Trước cửa phòng gác, hai học sinh đứng dừng lại một lúc.
Từ lúc nhìn ảnh đến khi ra đứng của phòng gác, hai học sinh đứng nói chuyện với nhau.
Cần: – Trông cụ đạo mạo nhỉ.
Bảo: – Đạo mạo lắm.
Cần: – Người Việt Nam đầu tiên học trường thuốc Tây?
Bảo: – Đỗ đến Y khoa Thạc sĩ
Cần: – Ở Paris.
Bảo: – Paris.
Cần: – Cụ về đây từ bao giờ?
Bảo: – 1931, năm năm rồi.
Cần: – Thế cụ sang Tây từ bao giờ?
Bảo (mỉm cười): – Từ khi cụ chưa có ở ta.
Cần: – Nghĩa là…
Bảo: – Cụ đẻ ở bên Tây.
Cần (tính nhẩm): – Một nghìn… tám trăm.
Bảo: – 1880.
Cần: – 1880 có người An Nam sang đẻ ở bên Tây?
Bảo: – Một nghìn tám trăm…63.
Cần: – 1863, làm sao?
Bảo: – Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản và 38 người khác nữa đi sứ Pháp…
Cần: – Rồi làm sao?
Bảo: – Một người ưa cảnh Paris ở lại.
Cần: – Đẻ cụ ra?
Bảo: – Khoan đã!
Cần: – Nói nhanh đi!
Bảo: – Cụ Hoàng Văn Minh ưa cảnh Paris ở lại.
Cần: – Rồi năm 1888…
Bảo: – Thong thả… Rồi năm 1864 lấy một người vợ đầm…
Cần: – Mười sáu năm sau, 1880, có con là cụ Hoàng Tố Nguyên bây giờ chứ gì?
Bảo: – Đi đâu mà vội thế?
Cần: – Sao cứ kéo dài ra?
(Một tiếng chuông).
Ngày 20-11-1937, Đàm Quang Thiện đứng ra ký hợp đồng với nhà đầu tư là Pei Song King – chủ rạp chiếu bóng Trung Quốc tại Hàng Bạc, đại diện cho Công ty Điện ảnh Nam Trung Hoa.
Theo đó, phía An Nam nghệ sĩ đoàn viết kịch bản, xuất tiền tuyển 22 đạo diễn “đóng trò”; chịu chi phí vé tàu biển khứ hồi từ Hải Phòng đi Hong Kong; hưởng 15% sau khi trừ toàn bộ chi phí.
Phía Công ty Điện ảnh Nam Trung Hoa chịu trách nhiệm chi phí đạo diễn, quay phim, dựng phim, làm hậu kỳ, sản xuất phim…; hưởng 85% lợi nhuận.
Nếu sau khi làm cố vấn phong tục, văn hóa Nam bộ cho Người tình của đạo diễn Jean-Jacques Annaud, nhà văn Sơn Nam kể lại quá trình làm phim trong bút ký Theo chân Người tình thì nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy. Được mời làm diễn viên đóng vai khán hộ của Bệnh viện Phủ Doãn trong bộ phim Cánh đồng ma, do Đàm Quang Thiện viết kịch bản, tác giả Vang bóng một thời cũng đã viết Một chuyến đi. Nhờ vậy, hiện nay, nghiên cứu lịch sử điện ảnh nước nhà đã biết thêm nhiều tình tiết cần thiết.
Dù hợp đồng nêu rõ, nếu muốn thay đổi chi tiết trong kịch bản phải có sự đồng ý của ông Thiện. Tuy nhiên, sang đến Hong Kong, đạo diễn Trần Phi ngang nhiên thay đổi, bất cần sự đồng ý của tác giả.
Với chủ đề Cánh đồng ma, trong đó, nhân vật Hùng này là sinh viên Y khoa học hành thông minh, nhưng xuất thân trong gia đình bất hảo nên một khi tiếp thu được khoa học – nếu sai lầm, phạm pháp thì tác hại sẽ ghê gớm hơn người bình thường. Chẳng hạn, đây là đoạn Hùng đã giết Bảo:
Bảo: – Anh định làm gì?
Hùng: – Trong hơn một năm nay, anh xem đấy, tôi biết bệnh của tôi đã lâu. Tôi nghiên cứu một thứ thuốc để chữa bệnh cho tôi. Thứ thuốc ấy tôi tưởng tìm thấy. Đây này. (Hùng giơ lên một hộp thuốc, trong có mấy ông thuốc). Tôi không hiểu nó sẽ công phạt hay kiến hậu thế nào. Nhưng bây giờ, tôi còn chút hy vọng là ở nó. Tôi nhờ anh tiêm giúp cho tôi.
Bảo: – Tiêm vào mạch máu?
Hùng: – Vào mạch máu. Nếu không, tôi đã không phải nhờ anh.
Bảo: – Tất anh cũng hiểu tôi không dám tiêm cho anh một thứ thuốc mà tôi không biết.
Hùng: – Tôi hiểu thế nên mới chờ đến giờ này, mời anh giúp tôi.
Bảo: – Có bao giờ tôi dám giúp anh một việc như thế. Biết đâu tôi giúp anh lại làm hại anh.
Hùng: – Người ta chế một thứ thuốc mới đem thử vào mọi người ốm thì được, tôi chế một thứ thuốc mới lại không có quyền thử vào tôi hay sao? Nhất là đời tôi hoàn toàn của tôi tạo thành, cha mẹ chỉ để lại cho tôi cái xác đầy những thói xấu di truyền và một óc tăm tối như bùn đen. (Đưa cho Bảo hộp thuốc một cách quả quyết). Anh tiêm cho tôi.
Bảo (Đứng dậy nói lãng): – Tôi đi về phòng lấy ống tiêm.
Hùng: – Anh đừng đánh lừa tôi. Ống tiêm có đây rồi. (Hùng để hộp thuốc xuống giường, quay vào phía trong tìm ống tiêm. Bảo thừa lúc ấy đi ra cửa, Hùng biết ý, vùng chăn ra, nhảy xuống giường, ra chận cửa, nắm lấy tay Bảo giữ lại, chẳng may hộp thuốc bị văng xuống đất vỡ hết).
Bảo (Có vẻ sợ): – Vỡ mất thuốc rồi.
Hùng (Giận dữ như điên): – Anh là đồ khốn nạn! Anh đập tan cái hy vọng sống cuối cùng của tôi. Anh hủy hoại hơn một năm công trình của tôi. Anh là người ích kỷ, chỉ biết cướp lấy cái sống một mình…
Bảo (Giăng tay Hùng ra, gọi to): – Thầy Ba!
Hùng (Nhanh nhẹn vặn đèn, tối om): – Mày trả cái sống cho tao!
(Người ta nghe tiếng xô xát kịch liệt. Tiếng Bảo bị bóp cổ kêu cứu).
Bảo: – Nó bóp cổ tôi! Nó… giết… tôi. Cứu tôi với!”.
Diễn biến tâm lý này đòi hỏi khả năng diễn xuất với hỗ trợ từ góc quay, kỹ thuật… Thế nhưng, Trần Phì lại lái câu chuyện theo hướng trinh thám, đâm chém, đàn bà trụy lạc để câu khách.
Trong bút ký Một chuyến đi, Nguyễn Tuân cay cú: “Người Tàu, thật là bọn giặc trong nghệ thuật nhựa. Tôi đã từng gặp nhiều chú khách cổ cao một ngấn, hai ba cái cằm in nét ở mặt, về quan niệm mỹ thuật mù tịt, đứng làm giám đốc về việc bài trí những phim ảnh. Một truyện phim đầy sinh khí, đầy thơ mộng, vào tay họ, thế nào cũng thành truyện kiếm hiệp, nếu không là trinh thám”.
Về thay đổi kịch bản, sự tranh cãi dữ dội đã nổ ra, cuối cùng, yếu thế do góp ít vốn, lại nơi đất khách nên không thể kiện tục về pháp lý, An Nam nghệ sĩ đoàn đành chấp nhận. Họ diễn xuất trong tư thế gượng gạo, miễn cưỡng.
Để trả đũa, sau 13 ngày đêm làm việc cật lực và hậm hực nhau, bộ phim Cánh đồng ma quay xong vào ngày 30-1-1938 thì đúng hai ngày sau, ngày 1-2-1938 (tức mồng 2 Tết năm Mậu Dần), Công ty Điện ảnh Nam Trung Hoa liền tống các diễn viên ra khỏi nơi đang cư trú.
Một bộ phim được thực hiện như thế, chất lượng thế nào? Tương tự dư luận báo chí đương thời, nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Quả là một trò rối”.
Dù thất bại, nhưng người Việt mê nghệ thuật điện ảnh vẫn không nản lòng. Đáng chú ý là tại Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Đinh – chủ hãng đĩa hát Asian đã thành lập Hãng phim châu Á và tuyển diễn viên vào đầu năm 1938 để quay bộ phim Trọn với tình, dài 90 phút trên phim nhựa 35mm đen trắng.
Điều rất bất ngờ, đạo diễn chính là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng Tám Danh (Nguyễn Phương Danh). Tuy phim còn kém cỏi nhiều mặt nhưng báo chí thời ấy, nhất là báo Trung Bắc Chủ nhật – nơi quy tụ của các thành viên An Nam nghệ sĩ đoàn, hết sức biểu dương cổ động.
Từ thất bại của Cánh đồng ma, bộ phim truyện có tiếng đầu tiên của Việt Nam, đến Trọn với tình do người Việt đạo diễn, ta nhận ra rằng, muốn thực hiện phim theo ý định của mình thì phải có kinh phí dồi dào; phải có tay nghề… Há đây chẳng phải là một trong những bài học cần thiết cho thế hệ nối gót theo sau đấy sao?