Xét trên quy mô, tính chất, sự va chạm lẫn nhau về lợi ích kinh tế, lẫn lợi ích chiến lược, hai bức tranh dù mới trong giai đoạn phôi thai, đã hứa hẹn nhiều nét chấm phá với những gam màu khác biệt.
Xét trên góc nhìn giao thương, Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) mang trong mình một hoài bão to lớn. Kết nối mười nền kinh tế tại khu vực vòng đai Thái Bình Dương gồm Chile, New Zealand, Singapore, Brunei (các thành viên sáng lập) và các nước đang trong quá trình đàm phán gia nhập là Hoa Kỳ, Malaysia, Australia, Nhật Bản, Peru và Việt Nam, TPP nổi lên như một biểu mẫu điển hình của xu thế tự do thương mại, đặc biệt trong bối cảnh những kết quả thất vọng của vòng đàm phán Doha (diễn ra trong khuôn khổ tiến trình tự do thương mại của WTO). Sau 12 năm thương thuyết (bắt đầu từ năm 2001), trước sự cách biệt lợi ích và thang giá trị quá chênh lệch giữa hai khối các nước phát triển và những quốc gia đang phát triển, vòng đàm phánDohabế tắc và gần như thất bại. Thêm vào đó, mô hình thương mại tự do đa phương càng trở nên kém hấp dẫn khi xu hướng bảo hộ mậu dịch của nhiều quốc gia – trước sức ép của khủng hoảng tài chính 2008 – quay trở lại. Một số nước nhận ra rằng con đường song phương hay chỉ giới hạn ở tầm khu vực sẽ hiệu quả hơn và đạt lợi ích sát sườn một cách nhanh nhất. Trong vòng hơn một thập niên, tổng số hiệp định tự do thương mại song phương và khu vực giữa các nước thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) đã tăng gần 10 lần (từ bốn hiệp định năm 2000, lên 39 năm 2012). Đó là chưa kể những vòng đàm phán đang vẫn còn tiếp tục.
Tại Đông Á, Trung Quốc đã đi đầu bằng nỗ lực thiết lập khu mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA, ASEAN China Free Trade Agreement). ACFTA được chú ý đặc biệt, vì trong nó đang lưu chuyển một xung lực mạnh mẽ của kinh tế thế giới với Trung Quốc, cùng các con rồng, con hổ mới nổi trong vùng Á châu. Chậm hơn một chân, Nhật Bản rảo bước theo sau bằng con đường song phương “một kèm một”. Không kể người bạn hàng xóm Hàn Quốc, chính phủ Tokyo đã ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với bảy nước trong khối ASEAN bao gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philippines và Việt Nam. Những chỉ dấu về thương mại song hành với những thay đổi về trật tự quyền lực vùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Quyết định không phá giá đồng nội tệ sau khủng hoảng châu Á năm 1997, chuyển biến trong cách tiếp cận của lãnh đạo Bắc Kinh trước sáng kiến Chiang-Mai (nhằm thiết lập một mạng lưới hỗ trợ tài chính thông qua các hợp đồng giao dịch hối đoái – “currency swap” giữa các nước ASEAN và nhóm ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc), Bắc Kinh đánh dấu mốc quan trọng trong việc xây dựng vai trò người “đảm bảo ổn định”, khiến cho nhiều tiên đoán rộ lên về vai trò mới của nước này. Siêu cường hay đại cường, lãnh đạo hay bá quyền là những câu hỏi đang diễn ra sôi nổi hơn bao giờ hết.
Nếu một khu vực tự do thương mại theo mô thức “châu Á của người Á” hình thành theo xu thế phát triển hội nhập khu vực trong 10 năm đầu tiên của thế kỷ XXI, nó có thể xem là một niềm tự hào cho châu lục đông dân nhất thế giới. Nhưng tại thời điểm hiện nay, ý tưởng đó đụng phải hai vấn đề chính. Một là thực tế châu Á từ lâu không chỉ (và không được phép) riêng là của người châu Á. Đây là nơi giao thoa lợi ích của nhiều nước, nhiều vùng và nhiều quyền lực bên ngoài khác nhau. Cụm từ “việc chia đôi khu vực Thái Bình Dương” như lời của cựu ngoại trưởng Mỹ James Baker năm 1989 là một viễn cảnh màu xám, mà ít quốc gia nào trong khu vực mong muốn. Nó đánh dấu điểm khác biệt lớn nhất giữa thời kỳ chiến tranh lạnh và thời đại ngày nay: toàn cầu hóa và xu thế hợp tác cần “nhập lại” chứ không cần chia ra. Và TPP chính là chiếc cầu nối giúp gắn kết hai bên bờ. Khó ai có thể hình dung rằng Hoa Kỳ, siêu cường có mặt liên tục tại châu lục này từ 1945 đến nay với những lợi ích về thương mại, kinh tế và chiến lược chồng chéo lại bị chặn đứng bên lề bởi những hàng rào mậu dịch do các nước Á châu tự tạo dựng với nhau. Và cũng sẽ là sai lầm khi nhận định rằng một TPP – không bao gồm Trung Quốc – sẽ là một cách thức của Mỹ và các nước đồng minh cân bằng quyền lực đang lên này. Trong tương quan Mỹ – Trung, Nhật – Trung hay ASEAN – Trung Quốc hiện nay, quyền lực hiếm khi xuất hiện ở dạng cân bằng với các liên minh nước này chống nước kia hay hướng tới một mục tiêu rõ rệt. Và đó là chìa khóa đi vào vấn đề thứ hai.
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương là phép thử cho các mô thức phát triển khác nhau đang song song cùng tồn tại trong vùng. Nó có thể giúp thành một dòng chảy chính, gắn kết các dòng chảy bên ngoài lại. Hoặc có thể là một dòng chảy song song, khiến cho mạch nước phân ra thành nhiều luồng khác biệt. Trong bối cảnh đó, lựa chọn của chúng ta tham gia vào TPP vừa là kinh tế, vừa là chiến lược từ góc nhìn của những nước có vị trí vừa và nhỏ. Khác với Mỹ, Nhật Bản hay EU, những đất nước đã phát triển với trình độ sản xuất cao và gắn kết hợp tác với ASEAN thông qua các chuỗi giá trị sản xuất mang tính bổ sung từ thấp đến cao, kinh tế Trung Quốc bao hàm hỗn hợp nhiều yếu tố khác biệt nhau cùng một lúc. Là nước phát triển tính về sản lượng sản xuất, mức độ phát triển ở các thành thị, nhưng cũng là nước chậm tiến tính về tỷ trọng của nền kinh tế trên nông nghiệp và sự tụt hậu ở các vùng ngoại vi. Ấy thế mà chuỗi sản xuất của Trung Quốc cần hợp tác với các nước ASEAN ở nhiều điểm vừa cao, vừa thấp, không bao giờ thuần túy là bổ sung mà còn là cạnh tranh, đối đầu, thậm chí đấu nhau kịch liệt. Thể hiện rõ nét nhất qua các thông số về thâm hụt mậu dịch ngày càng tăng trong mối quan hệ thương mại với anh bạn phương Bắc.
Sâu xa hơn, trong mối tương quan được định hình bởi “sự bất đối xứng quyền lực” thì một hiện tượng rất thường xuyên xảy ra là “bất đối xứng trong mức độ tổn thương”. Hiểu nôm na là một quyết định của nước yếu hơn, nhỏ hơn chẳng có tác động gì ghê gớm đến nước lớn, trong khi đó một cái nhảy mũi, hay một cái hắt xì của anh khổng lồ dù vô tình hay cố ý, có thể gây điêu đứng cho bạn láng giềng nhỏ kế bên. Á châu bao gồm nhiều nước mạnh, nhưng chưa có cơ chế liên kết mạnh, hay chưa có một quốc gia nào đủ mạnh (về khả năng, cũng như về ý chí) để thúc đẩy sự hoạt động các cơ chế. Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của các quốc gia Á châu hiện nay đang có những lệch pha.Tokyomạnh về kinh tế, quân sự vẫn che chung ô dù an ninh của Mỹ. ASEAN chưa thể giữ vai trò một thể thống nhất. Còn vị trí lãnh đạo khu vực của Trung Quốc thể hiện ra với nhiều gam màu hỗn hợp. Sáng như trong hợp tác tài chính – ngoại thương, tối như ở Biển Đông hay ở sông Mekông, những hồ sơ mà Bắc Kinh đưa ra vẫn chưa thể tìm cân bằng lợi ích quốc gia và thúc đẩy giải quyết các vấn đề khu vực hay quốc tế.
Dưới những góc nhìn trên, TPP đối với Việt Nam có thể xem là một hiệp định tự do mậu dịch với ý nghĩa vượt quá góc nhìn của thương mại. Tranh luận về đẳng cấp phát triển giữa mô thức Đông Nam Á (theo kiểu tương tự với Indonesia và Thái Lan) hay mô thức Đông Á (điển hình là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore) hoặc bài toán về chính sách đối ngoại làm sao duy trì lợi ích nội biên (với các nước san sẻ cùng địa dư, lãnh thổ hay có mối quan hệ truyền thống lâu đời) và mở rộng lợi ích ngoại biên (các đối tác bắt đầu tìm được sự tương đồng lợi ích với Việt Nam) đã xuất hiện thêm nhiều biến số mới.
Kỳ sau
Bài 2: Hiệp định thương mại tự do song phương Việt Nam – EU, tìm cơ hội trong thách thức
ViệtNamsẽ là nước đạt được lợi ích nhiều nhất từ Hiệp định TPP. Đó là kết luận trong công trình “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và Hội nhập châu Á – Thái Bình Dương: Đánh giá định lượng” của GS Peter Petri cùng các đồng sự. Đây là một trong những công trình hiếm hoi phân tích TPP bằng phương pháp định lượng. Những yếu tố như (i) quan hệ thương mại mạnh với Mỹ, (ii) lợi thế cạnh tranh trong các ngành dệt may – giày dép và (iii) tỷ lệ bảo hộ còn cao từ nước ngoài với hàng Việt Nam sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu khi TPP thành hình. Trong khi (iv) tỷ lệ bảo hộ trong nước cao và (v) phạm vi ảnh hưởng lớn đối với các ngành sản xuất chính sẽ giúp kích thích thu nhập từ sản xuất trong nước. Ngược lại những vấn đề lớn nhất trong đàm phán là phải đi vào đề nghị (chủ yếu từ phía Hoa Kỳ) về sở hữu trí tuệ và hạn chế vai trò doanh nghiệp nhà nước, hay những quy định khắt khe trong một số lĩnh vực như lao động và mua sắm công, vốn là những điểm còn nhiều vấn đề từ phía Việt Nam.
Nguyễn Chính Tâm