Ngày giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là “Lễ hội Đền Hùng” được nhà nước ta xem là một ngày quốc lễ, là ngày để tất cả mọi người cùng hướng về vùng đất Phú Thọ để tưởng nhớ đến công ơn các Vua Hùng đã có công dựng nước.

Hòa chung không khí hết sức thiêng liêng ấy, mỗi một chúng ta nên ôn lại lịch sử dựng nước của vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn được ghi chép trong khối tài liệu Mộc bản – Di sản tư liệu thế giới.


Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, ghi chép đầy đủ về thời đại Hùng Vương như sau:
“Hùng Vương là con Lạc Long Quân (không rõ tên húy), đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc). Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đều là đất thần thuộc của HùngVương; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô. Đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là LạcTướng (chữ Lạc Tướng, sau chép sai là Hùng Tướng). Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Quan coi việc gọi là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Vua các đời đều gọi là Hùng Vương”.

Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chép: Hùng Vương sắp đặt tên các quan (tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là lạc tướng, con vua thì kêu là quan lang, con gái vua tên là Mỵ Nương, quan Hữu ty gọi là Bồ Chánh. Đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo (đạo cha). Hùng Vương truyền 18 đời vua, trải hơn 2.600 năm.
Như vậy, Hùng Vương làm vua và cai trị đất nước Văn Lang trải qua 18 đời vua, hơn 2.600 năm.
Để tưởng nhớ về công lao của các vua Hùng, vua Tự Đức đã làm thơ vịnh:
Phiên âm:
“Văn Lang Kiến Quốc lịch thiên niên
Phụ đạo tương thừa thập bát truyền”
Tạm dịch:
“Trải ngàn năm dựng nước Văn Lang
Phụ đạo truyền mười tám Hùng Vương”.
Dưới triều Nguyễn, các vị vua luôn ý thức cao về cội nguồn của dân tộc mình, cũng như nghi lễ thờ cúng phải suy từ nguồn gốc nên miếu thờ Hùng Vương được đặt vào hàng miếu thờ các bậc đế vương, hàng năm vào dịp giỗ tổ đều sai quan đến làm lễ tế đầy đủ. Ban phu thờ phụng ở miếu Hùng Vương 52 người (xã Hy Sơn, huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây) nay lăng miếu thờ các vua Hùng hiện vẫn còn tồn tại ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Hàng năm vào ngày 10.3 âm lịch, giỗ tổ được tổ chức rất trọng thể và tôn nghiêm để tưởng nhở về cội nguồn của dân tộc Việt.
- Xem thêm: Niềm vui… chết người

Năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), trong buổi định điển thờ miếu Lịch đại đế vương, xét về quy chế miếu thờ thì gian tả nhất thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Sĩ Vương và Đinh Tiên Hoàng đế.

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), trong quá trình biên soạn bộ sách Việt Sử vua chuẩn cho: cho lấy Hùng Vương làm vua đầu tiên chính thống (theo lời Sử thần) Kinh Dương và Lạc Long chia chua ở dưới vua Hùng Vương cho hợp với nghĩa “lấy việc ngờ truyền lại việc ngờ”. Như vậy, vua Tự Đức ghi nhận Hùng Vương là vị vua đầu tiên chính thống của dân tộc ta.

Thông qua nguồn tài liệu lưu trữ để góp phần khẳng định thêm truyền thống “uống nước nhớ nguồn” hướng về tổ tiên, hướng về cội nguồn dân tộc; cổ vũ và phát huy tinh thần Văn Lang, truyền thống các Vua Hùng không bao giờ thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. Đây chính là động lực tinh thần góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân cùng vượt qua mọi khó khăn, gian lao, khắc nghiệt của thiên tai, địch họa,… và qua đó càng củng cố niềm tin cho cộng đồng để cùng nhau hướng tới tương lai, bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, mãi mãi xứng đáng là con Lạc cháu Hồng, xứng đáng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.