Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè: Chín năm thi công cùng 317 triệu USD và…

Nếu không có gì thay đổi, ngày 2-9 tới đây, dự án vệ sinh môi trường thành phố lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè sẽ chính thức hoàn tất, khép lại chín năm thi công một công trình được người dân TP. Hồ Chí Minh rất quan tâm. Tâm trạng chung của đa phần người dân thành phố nói chung, người dân sống và làm việc dọc hai bờ kênh nói riêng đều cảm thấy vui với một công trình đánh dấu sự thay đổi cảnh quan đô thị, nhưng ở mặt sau của nó vẫn còn nhiều điều để nói.

Gần 20 năm cho việc thay đổi  một dòng kênh

Trong ký ức những người cao niên từng sống ở Sài Gòn, vào những thập niên 1960-1970, con kênh này “lau lách mọc um tùm, nước trong leo lẻo”. Nhưng rồi từ những năm đó, nhất là từ năm 1980 trở về sau, khi các cơ sở sản xuất phát triển ở các quận nội thành, dân cư bắt đầu tụ về đông đúc, cuộc sống nơi đây dần xô bồ hơn, cũng là lúc dòng kênh bước sang trang đen tối, ngập rác rưởi và bốc mùi hôi thối do gánh trên mình những căn nhà sàn lụp xụp, nhếch nhác lấn chiếm lòng kênh, không chỉ mất mỹ quan mà còn ô nhiễm nghiêm trọng.

Tại cầu Trần Quang Diệu (quận 3), dù hai bên đường đã hoàn thành với cây xanh, thảm cỏ, bờ kè tươm tất, nhưng dòng nước vẫn chưa xử lý, đen ngòm và vẫn còn rác (đến thời điểm đầu tháng 8)

Dự án vệ sinh môi trường thành phố, lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè là giai đoạn II của dự án cải tạo kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Giai đoạn I của dự án chính thức bắt đầu từ năm 1993. Khi ấy, Sở Địa chính – Nhà đất (nay là Sở Tài nguyên – Môi trường và Sở Xây dựng) cùng các quận 1, 3, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình thực hiện tái định cư cho gần bảy ngàn hộ dân hai bên bờ kênh. Tiếp đó, Sở Giao thông Công chánh (nay là Sở Giao thông Vận tải) tiến hành nạo vét kênh và xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng dọc kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè như đường dọc kênh, hệ thống thoát nước, chiếu sáng, cây xanh… Trong vòng năm năm (1993-1998), việc giải tỏa và tái định cư cho người dân đã hoàn thành. Năm 1996, UBND TP.HCM lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Tận sáu năm sau, việc nạo vét kênh và thi công 12/14 đoạn đường dọc kênh mới hoàn tất.

Đến giai đoạn này, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đồng ý ký hiệp định cho vay vốn để thực hiện dự án cải tạo kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè giai đoạn II (vệ sinh môi trường thành phố lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè) nhằm giải quyết triệt để việc ngập úng cho hơn 33km2 của lưu vực kênh này. Dự án chính thức được thi công từ năm 2003 với tổng vốn đầu tư ban đầu khoảng 200 triệu USD, trong đó WB cho vay 166 triệu USD. Đến năm 2012, tổng vốn đầu tư của dự án đã được điều chỉnh lên gần 317 triệu USD, trong đó vốn ODA gần
294 triệu USD, còn lại là vốn đối ứng của TP.HCM.

Những vấn đề cần được rút kinh nghiệm

Như đã nói, công trình cải tạo dòng kênh đen, biến một tuyến đường gây nhức nhối về môi trường vệ sinh đô thị thành một tuyến đường đẹp của thành phố rất được dư luận quan tâm. Chính vì vậy, dư luận không thể hài lòng với tiến độ, sự chậm trễ và những bất cập của một dự án trọng điểm.

Trong quá trình thi công, dự án nhiều lần bị WB tính cắt hợp đồng do thi công quá chậm tiến độ. Hiệp định vay vốn của dự án có hiệu lực từ ngày 3-2-2002 và hết hạn vào ngày
31-12-2007, vậy mà cuối năm 2007 công trình vẫn ngổn ngang, không đâu vào đâu, “lô cốt” mọc đầy không biết đến khi nào mới dỡ. Vì vậy, WB yêu cầu dự án phải đạt được một số chỉ tiêu nhất định về số tiền giải ngân và khối lượng thi công mới đồng ý gia hạn hiệp định vay vốn. Nhờ nhiều cố gắng đẩy nhanh tiến độ, dự án được WB đồng ý gia hạn đến ngày
30-6-2008, sau đó tiếp tục gia hạn đến ngày 31-12-2009. Đến hết năm 2010, dự án vẫn chưa đến đích và thời điểm gia hạn lại kéo dài, hết 31-12-2011 lại đến 30-6-2012…

Sự chậm trễ tiến độ đến hơn gấp đôi thời gian (chín năm so với hơn bốn năm dự kiến) chắc chắn gây ra những thiệt hại không chỉ tính được bằng tiền (chi phí tăng thêm, giá cả tăng, thất thoát…), mà còn thêm những thiệt hại không nhỏ về môi trường (ô nhiễm, bụi, hôi thối, cảnh quan đô thị nhếch nhác). Những thiệt hại đó có thể đã không xảy ra nếu ngay từ đầu có một chế độ quản lý dự án nghiêm ngặt, chọn được nhà thầu có uy tín và giám sát chặt chẽ việc thi công. Thiết nghĩ các cơ quan hữu quan cần rút kinh nghiệm sâu sắc để tình trạng trên không còn tái diễn. Điển hình nhất là vụ bê bối của nhà thầu Trung Quốc. Tổng Công ty Xây dựng Trung Quốc (CSCEC) là nhà thầu đã trúng thầu gói số 10 của dự án với tổng giá trị là 60 triệu USD. Đây là gói thầu quan trọng, gồm nhiều công đoạn như nạo vét một triệu m3 bùn, gia cố đất và lắp đặt cừ bản ven kênh nhằm sạch hóa toàn bộ dòng kênh… Thế nhưng CSCEC chỉ chủ yếu tập trung xây tường cừ và bỏ bê các phần việc khác. Kênh có tất cả 19 cây cầu bắc ngang, trong đó có những cây cầu quan trọng như cầu Thị Nghè 1 và 2, cầu Điện Biên Phủ, cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Công Lý… nhưng CSCEC chỉ tiến hành đóng cừ bê tông dọc hai bờ kênh để chống sạt lở, bỏ qua việc gia cố các mố cầu, khiến tình trạng sụt lún xảy ra. Với tiến độ ì ạch, chất lượng kém, thất thoát vốn, gói thầu này đã không thể hoàn thành đúng thời hạn mà phải trì hoãn nhiều lần. Đến tháng 2-2010, WB chính thức yêu cầu cắt hợp đồng với CSCEC. Tuy đã bị loại khỏi dự án, song hậu quả CSCEC để lại rất nặng nề, chủ đầu tư phải giải quyết bằng cách tách phần việc còn lại của gói thầu ra thành năm gói thầu khác để đấu thầu lại, đẩy kinh phí tăng gấp nhiều lần. Các công ty trong nước sau đó đã phải gia cố mố trụ cho 18 trong tổng số 19 chiếc cầu, đào bỏ toàn bộ bê tông nhựa mặt đường ở khu vực quanh mố cầu rồi mới gia cố bằng cách khoan cọc xi măng xuống đất. Công trình này mất nhiều thời gian do di dời hạ tầng kỹ thuật, toàn bộ mặt cầu bị chiếm dụng gây kẹt xe kéo dài.

Từ  cầu Thị Nghè (quận 1), dòng kênh đã dần trong trở lại, tuyến đường hai bên bờ kênh cũng được trồng cây xanh cho kịp tiến độ khánh thành

Cũng phải nói đến những “chuyện nhỏ” khi dự án hoàn thành. Xin đơn cử: hai con đường dọc bờ kênh nay đã sạch đẹp, có hoa, cỏ tươi xanh, đèn đường sáng sủa, con kênh như được khoác tấm áo mới, nhưng dòng nước dưới kênh thì vẫn đen, mùi khó chịu vẫn còn bốc lên khi nước xuống thấp. Sắp tới, dù có hoàn tất việc thu gom và xử lý nước thải lưu vực kênh và vùng phụ cận, việc giữ gìn dòng kênh xanh sẽ đòi hỏi ý thức rất cao của cả các đơn vị chịu trách nhiệm quản lý lẫn người dân. Rồi việc duy tu những gì đã làm cho bờ kênh dường như cũng chưa được quan tâm đúng mức, lại gây lãng phí, ví dụ việc tưới nước tự động cho bãi cỏ xanh là cần thiết, nhưng trong cơn mưa tầm tã mà để các vòi nước vẫn thả sức phun thì có ai không xót xa, bởi nước sạch là một tài nguyên quý cần phải tiết kiệm.

Thanh An

Exit mobile version