Ngày 8-4-1954, Peter Duffey – đồng phi công lái chiếc máy bay phản lực dân dụng 4 động cơ Comet G-ALYY – do hãng De Havilland sản xuất – của tập đoàn Hàng không Hải ngoại Anh (BOAC) – đáp xuống sân bay Heathrow nước Anh.
Khoảng 36 giờ đồng hồ sau, với một phi hành đoàn mới trên khoang, máy bay cất cánh từ Rome để tiếp tục hành trình khứ hồi về Nam Phi. Ngay sau khi bay qua Naples, phía trên hòn đảo Stromboli ở đỉnh cực Nam của Ý, máy bay phát nổ.
Phi hành đoàn gồm 7 người và toàn bộ 14 hành khách thiệt mạng. Đây là vụ nổ giữa không trung lần thứ 2 của loại máy bay Comet (mang các ký hiệu như G-ALYY, G-ALYZ, G-ALYP) chỉ trong vòng 3 tháng.
Niềm kiêu hãnh của hàng không dân dụng Anh
Tháng 7.1949, chiếc Comet đầu tiên được đưa ra khỏi nhà chứa máy bay trong nhà máy De Havilland tại Hatfield, cách trung tâm London chừng 40km về phía bắc. Phần thân Comet bằng thép bóng loáng được thiết kế với có những bộ cánh vát về phía sau nhằm che khuất 4 động cơ phản lực.
Dọc mỗi bên thân là những cửa sổ hình chữ nhật lớn cho phép hành khách ngắm những hình ảnh kỳ thú dưới mặt đất từ độ cao tới 12km.
Alistair Hodgson, người hướng dẫn tại Bảo tàng Hàng không De Havilland, đánh giá: “Trông nó hiện đại, sạch sẽ và rất khí động học. Máy bay lướt trên không một cách hoàn hảo. Và tất nhiên, đó là những gì nó đã làm được. Có câu ngạn ngữ cổ rằng ngành hàng không dân dụng nếu có được một chiếc máy bay ổn thì ngành này sẽ cất cánh ổn. Comet bay cao hơn, nhanh hơn và êm hơn bất kỳ một loại máy bay nào khác vào thời điểm đó. Comet khiến mọi loại máy bay khác đều trở nên lỗi thời”.
Sau gần 2 năm bay thử nghiệm, Comet thực hiện chuyến bay dân dụng đầu tiên vào ngày 2-5-1952 đến Johannesburg (Nam Phi) – với hành trình bay qua Rome, Beirut, Khartoum, Entebbe và Livingstone. Hành trình chỉ mất có 23 giờ được đánh giá là thắng lợi to lớn. Hành khách cho biết họ được hưởng một hành trình êm ái, dịch vụ tuyệt hảo và những bữa ăn được trình bày rất bắt mắt. Comet khiến cả thế giới phải ghen tị.
Hugh Dibley, phi công từng làm việc cho BOAC hồi thập niên 1960, nhớ lại: “Đội bay Comet tự coi họ là thành phần ưu tú trong BOAC. Máy bay thậm chí còn có cả tên gọi riêng hết sức đặc biệt là ‘Jet Speedbird’”. Chỉ trong vài tháng, BOAC triển khai thêm một số chuyến bay tới Ceylon (nay là Sri Lanka), Karachi, Singapore và Tokyo. Trong khi đó, De Havilland bắt đầu nhận thêm đơn đặt hàng cung cấp Comet từ các hãng hàng không Canadian Pacific Railway (CPR, Canada), Air France (Pháp) và Không lực Hoàng gia Canada (RCAF).
Với vận tốc lên tới 807km/giờ, hành khách được trải nghiệm chuyến bay đáng nhớ trong đời. Comet là loại máy bay phản lực dân dụng đầu tiên sử dụng thiết bị điều khiển bay thủy lực. Khi phi công di chuyển cần điều khiển, thiết bị sẽ kích hoạt một cái bơm, đẩy chất lỏng qua một vòng các đường ống để kiểm soát bề mặt cánh máy bay.
Peter Duffey, cựu phi công lái Comet và tác giả cuốn sách Comets and Concordes (xuất bản năm 2000), giải thích: “4 chiếc máy bay đầu tiên bị lỗi ở phần các bít kín các mối tiếp giáp và chúng tôi từng phải mang theo dầu thủy lực để đổ thêm vào hệ thống”.
Các phi hành đoàn cũng báo cáo họ gặp cả những vấn đề khác nữa. Hệ thống điện và định vị thường bị quá nóng. Các cửa sổ trong buồng lái thường bị mờ hơi. Trong khi đó, máy bay chỉ bay được 4 giờ đồng hồ là cần phải tiếp nhiên liệu. Thế nhưng còn có một vấn đề căn bản hơn đối với kiểu thiết kế của cần điều khiển. Duffey tiếp tục trình bày: “Có thể nói chắc rằng việc điều khiển chiếc máy bay như vậy là vô cùng nguy hiểm, thế nên tôi cho rằng đó là lý do dẫn đến tai nạn chết người”.
Tai nạn được báo trước
Ngày 26-10-1952, Peter Duffey đang ngồi nhấm nháp ly rượu vang đỏ trong khu vực sân bay ở thành phố Rome của Ý sau khi lái chiếc Comet mang ký hiệu G-ALYZ đến từ Beirut (Liban). Duffey lặng lẽ ngồi ngắm máy bay trước khi nó cất cánh trở về London.
Ông nhớ lại: “Bỗng nhiên, chúng tôi thấy máy bay trượt khỏi đường băng. Chúng tôi liền nhanh chóng lái chiếc xe jeep đến nơi máy bay vẫn đang phát ra âm thanh phì phì. Bình xăng dưới bụng máy bay bị xé rách và nhiên liệu loang khắp nơi”. Thật kỳ diệu là đã không hề xảy ra hỏa hoạn cũng như không có ai trong số phi hành đoàn lẫn 35 hành khách trên khoang bị thương. Viên phi công bị quy trách nhiệm gây ra vụ tai nạn, nhưng vụ việc cũng bộc lộ rõ khiếm khuyết của thiết kế máy bay.
Duffey phân tích: “Vấn đề là phần mũi máy bay bị nâng quá cao khi cất cánh khiến cho nó bị lực ma sát tác động quá mạnh vào phần cánh và từ đó không thể nhấc mình lên được. Vấn đề không chỉ là phần cánh mà là tình trạng thiếu độ nhạy của cần điều khiển, khiến cho phi công có thể kéo nó ra sau nhiều quá mức. Điều đó lẽ ra đã không bao giờ xảy ra nếu như các phi công lái thử nghiệm một cách cẩn thận hơn trên chiếc máy bay đó”.
Đến ngày 13-3-1953, sự cố tương tự tiếp tục xảy đến với chuyến bay khởi hành từ thành phố Karachi của Pakistan. Lần này, một chiếc Comet đã lao xuống cây cầu đá và phát cháy. Hậu quả là toàn bộ 11 thành viên phi hành đoàn và các nhân viên kỹ thuật trên khoang tử nạn. Tháng 6 cùng năm, một máy bay khác bị hư hại tại thủ đô Dakar của Senegal trong một vụ tai nạn tương tự.
Duffey nói: “Với trách nhiệm phi công, chúng tôi bắt đầu thấy hết sức lo ngại và bắt đầu chủ động tích cực tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra”.
Ngày 2-5-1953, 43 người thiệt mạng khi một chiếc Comet bị rơi sau khi rời thành phố Delhi của Ấn Độ. Cuộc điều tra sau đó cho thấy chiếc phi cơ bị gãy vỡ khi bay vào vùng thời tiết cực xấu. Sau những vụ tai nạn liên tiếp, bộ hướng dẫn mới về việc cất cánh được cung cấp cho phi công, thiết kế cánh được điều chỉnh, và mẫu tương lai của máy bay được đề xuất với bộ phận radar thời tiết được lắp đặt thêm. Nhưng những điều tồi tệ vẫn tiếp tục xảy ra.
Alistair Hodgson giải thích: “Mẫu máy bay mới có đến 2 lỗi chết người. Thứ nhất là cách thiết kế. Vỏ máy bay được làm mỏng nhất có thể nhằm giúp giảm tải trọng tối đa. Comet bay ở độ cao rất lớn nên cần được tạo áp lực để hành khách bên trong có thể hít thở bình thường. Nhưng như thế thì máy bay sẽ giống như một quả bóng bay đồ chơi được thổi phồng lên rồi lại cho xì hơi cùng lúc nên hậu quả là nó sẽ bị rách toác. Vấn đề thứ hai liên quan tới các cửa sổ hình chữ nhật. Nếu bạn có một ô hình vuông trống nằm giữa một miếng kim loại mỏng, giống như ở vỏ của một chiếc máy bay, và nếu bạn co kéo tấm kim loại đó thì nơi bị rạn vỡ đầu tiên sẽ là ở góc của hình vuông đó”.
Ngày 10-1-1954, chiếc Comet G-ALYP cất cánh từ Rome rồi sau đó lao vào những đám mây. Trong cuộc điện đàm qua vô tuyến điện để báo cáo về thời tiết, việc truyền tín hiệu đột ngột bị cắt. Dưới mặt đất, các ngư dân cho biết họ nghe thấy nhiều tiếng nổ rồi tiếp đến là một loạt những mảnh vỡ cháy sém từ trên trời rơi thẳng xuống. Toàn bộ 29 hành khách và 6 thành viên phi hành đoàn thiệt mạng.
Cuộc điều tra cấp tốc
Toàn bộ các máy bay Comet của BOAC và Air France ngay lập tức được lệnh ngưng hoạt động. Các mảnh vỡ được thu gom và cuộc điều tra được tiến hành ngay lập tức nhưng các nhà điều tra vẫn không xác định được bất kỳ nguyên do nào dẫn tới thảm họa. Hơn 50 chỉnh sửa đối với mẫu máy bay Comet cũng được yêu cầu thực hiện ngay.
Phi công Duffey của BOAC nhớ lại: “Một loạt các cuộc họp mở ra tại Heathrow để xem xét hết tất cả những gì đang diễn ra”. Trong cuộc họp mọi người tham gia phải bỏ phiếu biểu quyết. Duffey kể: “Với tỷ lệ ủng hộ cao hơn tỷ lệ chống, máy bay được quyết định hoạt động trở lại. Nhưng tôi phản đối vì cảm thấy các chỉnh sửa vẫn chưa đủ để tìm ra ra lý do dẫn tới vụ nổ”.
Đáng buồn là Duffey đã chính xác. Khi chiếc Comet G-ALYY lại nổ tung giữa không trung lần nữa vào hôm 8-4-1954, toàn bộ các máy bay Comet trên thế giới một lần nữa nhận được lệnh ngừng bay.
Hodgson bình luận: “Câu chuyện giống như cơn động đất trong ngành hàng không, bởi vì cả thế giới nhìn nhận De Havilland và nước Anh như những nhà tiên phong trong lĩnh vực di chuyển bằng đường hàng không nhanh hơn, cao hơn, tiện nghi hơn. Nhưng điều bí ẩn khủng khiếp là tại sao những chiếc máy bay của tương lai và tuyệt vời như thế lại bỗng dưng nổ tung trên trời.
Còn Duffey cho biết: “Tôi cảm thấy bất bình về chuyện Comet được phép hoạt động trở lại khi chưa có điều gì chắc chắn về sự an toàn. Cuối cùng, tôi tham gia nghiệp đoàn các phi công Balpa với quyết tâm làm sáng tỏ sự thật là điều gì đã xảy ra với loại máy bay mà chúng tôi đang điều khiển”.
Một nhóm chuyên gia tập hợp tại Viện Nghiên cứu Hàng không Hoàng gia Anh (RAE) ở thành phố Farnborough để tiến hành cuộc điều tra quy mô chưa từng có về các vụ tai nạn máy bay. Cuộc điều tra đánh dấu sự ra đời của ngành điều tra các vụ tai nạn máy bay trên thế giới ngày nay.
Hodgson cho biết: “Nghiên cứu những mảnh vỡ thu được cho thấy rõ máy bay nổ tung theo cách thức nào đó. Nhưng người ta không thể thử nghiệm một chiếc máy bay bằng cách lặp lại vụ nổ cho nên họ đã dìm máy bay vào bể nước khổng lồ và bắt đầu tiến hành một loạt thử nghiệm về độ bền cũng như khả năng chịu áp lực”.
Sau loạt thử nghiệm tương đương với 9.000 giờ bay, áp suất dưới nước tác động lên thân máy bay được nâng lên hạ xuống để tạo ra những điều kiện giống như những gì nó có thể phải chịu trong quá trình bay. Sau 6 tuần, áp suất đột ngột được hạ xuống. Tấm kim loại có các vết nứt quanh một trong các cửa sổ, và thân máy bay bị vỡ toang. Rõ ràng là thân máy bay quá mỏng, và các khung cửa sổ hình chữ nhật là nguồn gốc gây ra sự chênh lệch độ bền ở vỏ máy bay. Máy bay phản lực đầu tiên của thế giới phải thiết kế lại toàn bộ. Hodgson bình luận: “Mọi người bắt đầu rút ra nhiều bài học và đưa ra những thiết kế mới nhằm tránh các lỗi trong thiết kế của De Havilland”.
Cách mạng ngành hàng không thế giới
Sau khi Comet chính thức ngưng hoạt động, chiếc máy bay cách mạng hóa ngành hàng không thế giới bắt đầu thành hình tại thành phố Seattle nước Mỹ. Cất cánh lần đầu tiên vào tháng 7.1954, chiếc Boeing 707 chính thức đi vào hoạt động năm 1958.
Trở lại nước Anh, nhà máy chế tạo máy bay De Havilland tiếp tục phát triển các mẫu Comet 2 và 3, trước khi cho ra Comet 4 vào cuối năm 1958. Dài hơn, tiện nghi hơn, có công suất chở được 92 hành khách. Comet 4 chắc chắn hơn, mạnh hơn và với các ô cửa sổ hình bầu dục an toàn hơn nhiều và có thể bay được đến hơn 4.000km, khiến nó trở thành mẫu lý tưởng cho các chuyến bay ở khoảng cách trung bình.
Mặc dù Boeing 707 giành được hầu hết các đơn đặt hàng lớn, nhưng Comet 4 của BOAC vẫn được đánh giá cao là máy bay phản lực dân dụng đầu tiên bay vượt Đại Tây Dương đến 2 lần.
Ngày 4-10-1958, các máy bay Comet 4 rời New York và Heathrow. Tuy chiều bay tới Mỹ phải dừng lại tiếp nhiên liệu ở Newfoundland, nhưng chiều đến London đã bay thẳng trong thời gian 6 giờ 11 phút. Comet 4 được BOAC sử dụng cho đến năm 1965 và được hãng hàng không Anh Dan Air dùng cho đến năm 1980. Chiếc Comet 4 chỉ chấm dứt những ngày tung cánh của mình vào năm 1997.
Duffey, viên phi công thoát nạn trong gang tấc trong 2 vụ tai nạn chết người của Comet, trở thành một trong những phi công đầu tiên của British Airways lái Concorde. Ngành hàng không Anh không bao giờ phục hồi trở lại hoàn toàn sau thất bại đầy thảm hại của Comet. Ngày nay, nơi từng đặt nhà máy của De Hatfield được biến đổi thành khu công nghiệp. Các văn phòng điều hành khi xưa nay là đồn cảnh sát, nơi cổng vào nay có một tiệm đồ ăn nhanh KFC; và khu nhà kho nơi đặt chiếc Comet đầu tiên cất cánh ngày xưa nay là phòng tập thể thao, còn mặt sàn nay là sân chơi tennis.
Chiếc Comet 1 nguyên bản duy nhất còn lại được phục chế tại Bảo tàng De Havilland ở ngoại ô phía Bắc London. Tuy cuối cùng thì Boeing đã chiến thắng trong cuộc chạy đua sản xuất hàng loạt các máy bay phản lực dân dụng và sau đó là các thế hệ máy bay an toàn hơn, rẻ hơn, nhưng di sản mà nhà tiên phong Anh để lại vẫn rất đáng tự hào. Chiếc Comet trông vẫn như một chiếc máy bay đến từ tương lai. Ngồi vào một trong những chiếc ghế bọc lớp vải lót êm ái tiện nghi trong khoang hạng nhất, bạn sẽ dễ tưởng tượng ra cảm giác của những ai được bay trên một trong những chiếc phi cơ một thời sang trọng này.