Năm 2019, ngoài việc tăng trưởng tín dụng bị thu hẹp lại, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) của các ngân hàng cũng không còn nhiều dư địa để cải thiện.
Thu nhập ngoài lãi tăng mạnh
Một trong những nhân tố khiến lợi nhuận của các ngân hàng có mức tăng đột biến trong năm 2018 chính là sự cải thiện của các hoạt động phi tín dụng.
Ngoại trừ Techcombank, các ngân hàng khác đều có tỷ trọng đóng góp từ thu nhập lãi ròng giảm đi, và thu nhập ngoài lãi tăng lên, phù hợp với định hướng giảm dần phụ thuộc vào cho vay.
Ví dụ, thu nhập dịch vụ tăng trưởng mạnh nhất ở TPBank, với mức tăng hơn 300%, MBBank và HDBank đều hơn 120%, chủ yếu nhờ vào việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Theo tính toán, lợi nhuận trước thuế năm 2018 của 10 ngân hàng BIDV, VietinBank, Vietcombank, ACB, Techcombank, VIB, VPBank, HDBank, TPBank, MBBank tăng 34,4% nhưng tổng thu nhập hoạt động chỉ tăng 18,4% so với năm trước đó.
Kết quả này có được ngoài sự tăng lên của các khoản thu từ dịch vụ thì xu hướng giảm chi phí dự phòng ở các ngân hàng đã tất toán hết nợ trái phiếu đặc biệt VAMC cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, điển hình nhất là ACB và Techcombank.
Liên quan đến kết quả mua bán, xử lý nợ xấu tại VAMC, ước tính đến cuối tháng 12-2018, VAMC mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt đạt khoảng 30.000 tỉ đồng (gần 95% kế hoạch Ngân hàng Nhà nước giao).
Theo đó, kết quả mua nợ lũy kế giai đoạn 2013-2018 đạt xấp xỉ 310.000 tỉ đồng theo giá mua. Mua nợ theo giá thị trường trong năm 2018 ước đạt gần 2.700 tỉ đồng (77% kế hoạch được giao), lũy kế giai đoạn 2013-2018 đạt xấp xỉ 5.830 tỉ đồng. Xử lý nợ xấu của VAMC dự kiến đạt 39.100 tỉ đồng dư nợ gốc (hơn 113% kế hoạch được giao).
Lợi nhuận năm 2019 “trông” vào đâu?
Năm nay, hạn mức tăng trưởng tín dụng Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho toàn hệ thống là 14%, thấp hơn so với mục tiêu của năm 2017 và 2018.
Đáng chú ý, tình trạng thiếu vốn của các ngân hàng quốc doanh được cho là nhân tố chính trong việc hạn chế tiềm năng tăng trưởng tín dụng của nhóm ngân hàng này.
Ngoài việc tăng trưởng tín dụng bị thu hẹp lại, NIM của các ngân hàng cũng không còn nhiều dư địa để cải thiện.
Năm 2018, NIM của TPBank và VIB tăng mạnh nhất trong ngành, với mức tăng 0,7-0,9 điểm phần trăm. Tiếp theo là MBBank, Vietcombank và ACB.
TPBank đã đẩy mạnh cho vay bán lẻ đáng kể từ năm 2017 bằng việc đề ra mức lãi suất ưu đãi trong 6-12 tháng đầu cho các khoản vay cá nhân.
Do vậy, khi lãi suất của các khoản vay ưu đãi này chuyển về mức thông thường thì NIM của ngân hàng cũng tăng mạnh so với năm 2017.
Kể từ năm 2019, khi tỷ trọng các khoản vay ưu đãi của TPBank thấp hơn nhiều so với trước đây thì tác động tích cực làm tăng NIM sẽ không còn mạnh mẽ như trước.
Còn MBBank, Vietcombank và ACB đã mở rộng NIM thành công thông qua việc tái cơ cấu danh mục tài sản theo hướng tập trung vào cho vay bán lẻ, doanh nghiệp vừa và nhỏ và tài chính tiêu dùng (đối với trường hợp MBBank), tuy vậy mức độ cạnh tranh trong các lĩnh vực này ngày càng gay gắt hơn.
Về phía HDBank và VPBank, NIM chỉ tăng nhẹ do đóng góp của mảng tài chính tiêu dùng thấp hơn so với giai đoạn tăng mạnh năm 2017.
Bước sang năm 2019, một số yếu tố có thể tiếp tục mang lại lợi nhuận cho các ngân hàng là: thu phí dịch vụ, đẩy mạnh giao dịch liên ngân hàng, cơ cấu lại nhóm khách hàng để tập trung vào những nhóm khách hàng cho vay mang lại lợi nhuận cao.
Tại TPBank, MBBank và HDBank, tăng trưởng thu nhập ngoài lãi có thể sẽ tiếp tục đạt mức cao, tuy rằng mức độ sẽ thấp hơn năm 2018. BIDV và Vietcombank cũng đang lên kế hoạch thoái vốn khỏi các liên doanh bảo hiểm nhân thọ hiện tại để tìm kiếm đối tác phân phối bảo hiểm độc quyền.
Nếu thành công, dự kiến hai ngân hàng này sẽ có khả năng thu được thu nhập bất thường từ thoái vốn và phí trả trước của hợp đồng nêu trên, cộng với mức tăng trưởng hằng năm cao hơn của doanh thu phí bancassurance.
Ngoài ra, thu nhập khác từ việc thu hồi các khoản nợ đã xử lý, hoạt động kinh doanh ngoại hối và kinh doanh chứng khoán cũng có thể duy trì đà tăng trưởng và góp phần mở rộng tỷ trọng đóng góp của thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập hoạt động.