Cuối năm 1971, cựu lính thủy đánh bộ Mỹ Stephen Islas trở về nước sau thời gian tham gia chiến đấu ở nước ngoài nhưng những hình ảnh chiến tranh vẫn luôn lảng vảng trong đầu ông. Islas nhớ lại: “Tôi gần như muốn tự sát khi trở về nước. Tôi bị tổn thương nặng nề về tình cảm và sức khỏe tinh thần”. Sau đó, một người bạn đề nghị Islas đăng ký tham gia một lớp dạy thiền định. Ban đầu, Islas cảm thấy hoài nghi…
Stephen Islas cho biết ông được chẩn đoán mắc phải Hội chứng rối loạn hậu chấn thương tâm lý (PTSD) hồi năm 2000 tại Trung tâm Y tế Cựu Chiến binh Tây Los Angeles. Dĩ nhiên, Islas không tin bản thân sẽ thoát khỏi căn bệnh ghê gớm đó. Cuối cùng, ông tin rằng thiền định đã cứu cuộc đời ông.
Thiền định để chữa bệnh và tìm kiếm trạng thái “tĩnh tâm”
Hiện nay, nhiều hình thức thiền định khác nhau trở thành liệu pháp đặc biệt dành cho các cựu binh sĩ Mỹ mắc phải PTSD cũng như cho để điều trị một số chứng bệnh và rối loạn tâm thần khác nhau – từ căng thẳng, lo lắng, trầm cảm, nghiện ngập cho tới đau mãn tính. Nhìn chung, thiền định còn là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhằm giúp nâng cao hiệu suất làm việc. Ngoài ra, thiền định đã tiến sâu vào các lớp học, doanh nghiệp, phòng thay đồ thể thao và smartphone với các ứng dụng như Headspace và Calm.
Hiện nay, khái niệm thiền định gọi là “tĩnh tâm” – một dạng thiền tập trung toàn tâm toàn trí vào thời điểm hiện tại – đang phổ biến rộng rãi và thậm chí trở thành ngành kinh doanh trị giá tỷ USD. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hiểu biết chính xác “thiền tĩnh tâm” tác động thế nào tới bộ não con người, ảnh hưởng ra sao đến sức khỏe đồng thời giúp mọi người chịu đựng những thử thách về thể chất và tinh thần đến mức nào.
Thực ra, thiền định được thực hành trong hàng ngàn năm qua, nhưng các nhà tâm lý học và nhà thần kinh học chỉ mới quan tâm nghiên cứu trong vài thập niên gần đây. Một số nghiên cứu cho thấy thiền định giúp mọi người thư giãn, kiểm soát stress mãn tính và thậm chí giúp giảm sự phụ thuộc vào thuốc giảm đau.
Cho đến nay, một số nghiên cứu ấn tượng nhất được tiến hành bao gồm cách điều trị gọi là liệu pháp nhận thức dựa trên “tĩnh tâm” – tức là kết hợp thiền định với liệu pháp tâm lý để giúp bệnh nhân đối phó với những suy nghĩ tiêu cực dễ dẫn đến trầm cảm.
Các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát chứng minh được rằng phương pháp này giúp giảm đáng kể nguy cơ tái phát trầm cảm ở những cá nhân trước đây từng có từ ba đợt trầm cảm nghiêm trọng trở lên.
Phương pháp thiền định đòi hỏi chúng ta phải ngồi yên và tập trung vào hành động hít thở để đạt đến trạng thái gọi là “tĩnh tâm” – theo nhà tâm lý học David Creswell, lãnh đạo Phòng thí nghiệm Sức khỏe và Hiệu năng của con người của Đại học Carnegie Mellon (CMU) ở Pittsburgh (Mỹ).
Nhưng, phần đông mọi người dành hầu như cả ngày để làm đủ những thứ gây phân tán tư tưởng – suy nghĩ lan man từ chuyện này sang chuyện khác, mơ mộng hay nhớ về quá khứ và thường xuyên lo lắng cho tương lai. Họ tự phân tích và tự phê bình.
Trong một nghiên cứu năm 2010, nhóm nhà nghiên cứu Đại học Harvard yêu cầu 2.250 người trưởng thành ghi lại những suy nghĩ và hành động của họ vào những thời điểm khác nhau trong ngày thông qua một ứng dụng trên iPhone. Kết quả cuối cùng được công bố trong tạp chí Science cho thấy mọi người để tâm trí nghĩ suy nghĩ lan man trong 47% thời gian cho nên thường dẫn đến tâm trạng ưu phiền.
Trong khi đó, David Creswell viết trong tạp chí Tâm lý học Thường niên (Annual Review of Psychology) năm 2017, “ngược lại, khả năng tập trung tinh thần giúp có được cuộc sống tốt đẹp, lành mạnh hơn”. Cresswell trích dẫn một nghiên cứu năm 2003 cho thấy có mối tương quan giữa “tĩnh tâm” và một số chỉ số về hạnh phúc.
Khi những người thiền định nói họ đang tập trung tinh thần đến khoảnh khắc hiện tại thì điều đó có nghĩa là họ đang tập trung vào hơi thở, cũng có thể vào một hình ảnh nào đó, vào một cuộc trò chuyện thầm kín hoặc một cảm giác trong cơ thể. Lần đầu tiên Creswell quan tâm đến “thiền tĩnh tâm” khi tham gia các khóa học về tâm lý và Phật giáo ở trường trung học.
Sau đó, Creswell bắt đầu nghiên cứu mối liên quan giữa thiền định với việc giảm stress và cải thiện sức khỏe tổng thể. Creswell giải thích: “Là một nhà khoa học, tôi không bao giờ bị thuyết phục một cách dễ dàng. Tôi được đào tạo để luôn có thái độ hoài nghi. Tuy nhiên, tôi cho rằng một số kinh nghiệm có được từ việc thực hành thiền định thực sự đã khiến tôi có những thay đổi”. Ngay cả hành động đơn giản nhưng cũng đầy thách thức là phải ngồi yên trong một giờ khi thiền định cũng đã tác động mạnh đến Creswell.
Ông chia sẻ: “Có sự ngắt kết nối, khiến tôi không cảm giác được sự đau đớn của cơ thể trong khi đó tâm trí của tôi hoàn toàn tĩnh lặng và cởi mở… Với tôi, đây là những hiểu biết sâu sắc về việc thực hành thiền định thực sự làm thay đổi cuộc sống của con người, hoặc thay đổi một cách căn bản cách họ nghĩ tới những đau khổ trong cuộc sống.
Không có một khoảnh khắc bất thần nào xảy ra với tôi, nhưng có rất nhiều những khoảnh khắc suy tư về những trải nghiệm tôi từng trải qua, là những khoảnh khắc khiến cho tôi thấy việc dành thời gian và nỗ lực để nghiên cứu khoa học là điều đáng làm”.
Từ hàng ngàn năm qua, những người có tôn giáo, văn hóa và triết học khác nhau từng nêu ra những lợi ích của thiền định. Thiền định có lẽ liên quan nhiều nhất đến Phật giáo, bởi vì tôn giáo này coi đó như là công cụ để đáp ứng được nhu cầu tinh thần và sự bình an. David Creswell gọi hành động thiền định là “một đặc tính cơ bản của con người”.
Nhưng liệu thiền định có làm thay đổi bộ não về mặt vật chất không? Đó là một câu hỏi khó trả lời, nhưng với các kỹ thuật chụp hình cắt lớp não đã có những bước tiến quan trọng, các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu một cách có hệ thống những gì đang diễn ra.
Tìm bằng chứng khoa học với nghiên cứu tác động đến não bộ
Liệu rằng thiền định có làm cho một số vùng trong não bộ hoạt động tích cực hơn những vùng khác, hay kết nối giữa vùng này mạnh hơn với vùng khác? Liệu rằng thiền định có tạo ra các tế bào thần kinh mới, hay có thực sự thay đổi cấu trúc não bộ hay không? Một số nghiên cứu cho thấy câu trả lời là có.
Các nhà thần kinh học nghiên cứu các hiệu ứng vật lý của “thiền tĩnh tâm” bằng cách sử dụng kỹ thuật chụp hình ảnh cộng hưởng chức năng (fMRI) và các kỹ thuật khác trong hai thập niên qua. Họ nhận thấy não bộ con người có khả năng thay đổi trong suốt tuổi trưởng thành, thậm chí cả khi ta đã lớn tuổi.
Não bộ hình thành các kết nối mới và phát triển các tế bào thần kinh mới khi ta học một kỹ năng mới, thách thức bản thân hoặc thậm chí là qua tập luyện. Một số nghiên cứu não bộ cho thấy “thiền tĩnh tâm” có thể giúp cải thiện chức năng và cấu trúc não bộ.
Với tiến bộ của kỹ thuật fMRI, các nhà khoa học đã phát hiện “thiền tĩnh tâm” kích hoạt một mạng lưới các vùng não bao gồm insula (thùy đảo – liên quan đến lòng bao dung, sự đồng cảm và tự nhận thức), putamen (nhân bèo sẫm – liên quan đến học hành) và các phần của vỏ não trước (điều hòa huyết áp, nhịp tim và các chức năng tự trị khác) và vỏ não trước trán (trung tâm của các kỹ năng tư duy bậc cao hơn như lập kế hoạch, ra quyết định và kiểm soát hành vi xã hội).
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không chắc là liệu những thay đổi này trong hoạt động của não có thể được duy trì không khi mà một cá nhân không tích cực thực hành thiền định, và nếu vậy thì con người chúng ta cần thiền nhiều tới mức nào để đạt được điều đó.
Khi nói đến những thay đổi cấu trúc thực tế trong não, một số nghiên cứu cho thấy “thiền tĩnh tâm” có thể làm tăng mật độ chất xám ở vùng đồi hải mã – vùng não cần thiết cho trí nhớ.
Các nhà nghiên cứu – bao gồm Britta H#lzel, hiện làm việc tại Đại học Kỹ thuật Munich, và Sara Lazar từ Bệnh viện Đa khoa Massachusetts – tìm thấy bằng chứng như thế trong một nghiên cứu năm 2011.
Dựa trên nghiên cứu đối với những người tham gia thiền định, Creswell và các cộng sự cho rằng “tĩnh tâm” hoạt động như một bộ đệm đặc biệt để chống lại stress. Tất cả là nhờ thiền định giúp tăng cường hoạt động ở các vùng của vỏ não trước trán vốn rất quan trọng đối với “kiểm soát stress từ trên xuống”, trong khi giảm hoạt động và kết nối chức năng ở các vùng liên quan đến phản ứng đối phó với stress – đặc biệt là phần hạch hạnh nhân (amygdala).
Ý tưởng cho rằng “thiền tĩnh tâm” tác động đến các vùng khác nhau của não bộ liên quan đến việc kiểm soát stress “từ trên xuống” được các nhà nghiên cứu chấp nhận rộng rãi – theo nhà tâm lý học lâm sàng Anthony King, Đại học Michigan (Mỹ).
Nhưng, Anthony King cho rằng những gì đang xảy ra liên quan đến amygdala thì không rõ ràng như thế. Amygdala, một trong những phần nguyên thủy nhất của não bộ, không đơn thuần là trung tâm báo động liên quan đến việc phản ứng lại các mối đe dọa. Đó là trọng tâm của cái được gọi là mạng lưới nổi bật, vốn đóng vai trò then chốt trong việc nhận biết điều gì là quan trọng trong môi trường của một người.
Ví dụ, ở người mẹ, amygdala có thể hoạt động rất tích cực khi nhìn gương mặt vui tươi của đứa con nhỏ. King lập luận: “Thiền tĩnh tâm giúp chúng ta đạt được điều mà các nhà tâm lý học gọi là ‘khả năng phản xạ’. Tức là, thay vì tự động phản ứng theo những cách nhất định, nó cho phép ta có nhiều sắc thái khác nhau khi phản ứng với bất kỳ tình huống nào – như căng thẳng, sợ hãi – và tạo ra khoảng cách tâm lý”.
Nghiên cứu năm 2016 của David Creswell và đồng nghiệp cũng phát hiện thiền định giúp giảm mức độ interleukin-6 – chất đánh dấu sinh học trong máu gây ra tình trạng viêm toàn thân được tăng lên ở những nhóm dân cư có tình trạng stress cao.
- Xem thêm: Thiền và nhịn ăn thế nào cho đúng?
Nghiên cứu cũng có kết quả tương tự đối với 23 cựu binh sĩ từng trực tiếp tham chiến ở Afghanistan và Iraq và bị PTSD. “Thiền tĩnh tâm” có thể giúp giảm bớt các triệu chứng rối loạn lo âu nói chung bằng cách gia tăng sự kết nối giữa amygdala và vỏ não trước trán, qua đó làm tăng khả năng điều chỉnh cảm xúc của bệnh nhân.
Thiền định cũng có thể làm giảm cảm giác đau đớn bằng cách giảm kích hoạt liên quan đến cảm giác này ở phần vỏ não cảm giác và tăng kích hoạt các khu vực liên quan đến việc điều tiết việc nhận thức về cơn đau đớn.
Tuy nhiên, về cơ bản thì “tĩnh tâm” là trải nghiệm được tạo ra bên trong tâm trí con người chứ không phải là loại thuốc mà các nhà khoa học có thể cung cấp cho bệnh nhân.
Trong trường hợp PTSD, Anthony King nhận định có khả năng “thiền tĩnh tâm” sẽ tiếp tục bổ sung cho các phương pháp điều trị tâm thần phổ biến nhưng “Tôi cho rằng tĩnh tâm là một liệu pháp hữu ích cho những ai đã được huấn luyện về cách điều trị PTSD”.
Nhưng với những người như Islas, vốn đã phải đối mặt với bệnh tâm thần nghiêm trọng, và những người sử dụng “thiền tĩnh tâm” để giảm căng thẳng hàng ngày, thì chắc chắn họ tin tưởng việc thực hành thiền định giúp cải thiện cuộc sống của họ.