Chúng tôi di chuyển từ thành phố Lucerne của Thụy Sĩ để sang Ý. Vượt qua chặng đường dài và băng qua dãy Alpen để đến thăm thành phố Milan. Phải nói rằng con đường này rất đẹp, hai bên đường là đồi núi trập trùng và ngút ngàn những bãi cỏ xanh thẳng tắp, dưới chân núi là những ngôi nhà nhỏ xinh xắn xếp thành những hàng dài..
Đến biên giới giữa trưa, chúng tôi vào ăn trưa ở một nhà hàng cách đó không xa. Cơm nước xong, đoàn khởi hành đi Milan để tham quan địa điểm đầu tiên của nước Ý: Đại Thánh đường Milan; ngôi thánh đường lớn nhất của quốc gia này.
Thánh đường Milan tọa lạc trong không gian của một quảng trường rất rộng lớn. Xung quanh được bao bọc bởi những tòa lâu đài cổ kính. Ngôi thánh đường ở giữa rất cao lớn, quy mô và bề thế. Phải nói rằng trong số những nhà thờ mà chúng tôi đã tham quan ở châu Âu, thì ngôi thánh đường này là kỳ vĩ nhất. Mặt tiền của thánh đường được thiết kế thành những cạnh nhỏ, chồng chéo lên nhau như một tấm mạng nhện mỏng mảnh, mềm mại. Phía trước thánh đường tấp nập du khách, từng bầy chim bồ câu rộn ràng bay lượn như đón chào mọi người.
- Xem thêm: Venice – di sản không mãi miễn phí
Sáng hôm sau, rời Milan, cả đoàn khởi hành đi Venice. Khoảng cách từ Milan đến Venice dài khoảng hơn 270 km. Sau khoảng 6 giờ, xe chúng tôi đến Venice vào buổi xế trưa. Đây là thành phố có số lượng du khách mà ở thời điểm nào cũng vượt trội so với các thành phố khác. Hướng dẫn viên cho biết thành phố Venice được xây trên một nền tảng vững chắc tạo bởi cả chục triệu trục gỗ sồi cắm vào bùn đất, xen kẽ là các mảnh vụn phế liệu và đá.
Lịch sử cũng ghi chép vùng đất này bắt đầu được người tiểu Á và Hi Lạp khai phá sau cuộc chiến tranh đẫm máu vào thành Troy năm 1.200 trước Công nguyên. Nhiều thế kỷ sau, người La Mã tiếp tục mở rộng bằng nhiều cuộc xâm chiếm. Tính đến nay, người dân Venice là tổng hợp của người tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ), Hi Lạp, La Mã và người Đức cổ.
Thiên nhiên ban tặng cho người dân nơi đây một nguồn thực phẩm dồi dào do ba con sông mang lại. Họ sinh sống bằng nghề đánh bắt cá, trồng trọt và làm muối. Với lý do trên, ngày nay, ngoại trừ pizza, bất cứ ngõ ngách nào ở Venice cũng có cửa hàng cá, cá là một món ăn đặc trưng ở nơi này.
Vì Venice nằm trên một bán đảo nên xe chúng tôi đi qua một cây cầu rất dài, và càng đến gần khu phố cổ thì lượng du khách càng đông và nhộn nhịp. Xuống xe trên một con lộ khá lớn, chúng tôi được hướng dẫn đi đến bến thuyền ra đảo. Trên những lối đi bộ ngắn dẫn đến bến thuyền tấp nập từng dòng người đi bộ, tuyệt nhiên không có một loại xe cộ nào. Ở đây có nhiều gian hàng bán quần áo, giày dép hay đồ lưu niệm.
Chiếc thuyền gỗ dài đưa chúng tôi ra đảo. Con thuyền bập bềnh trên sóng nước, hai bên là hàng hàng những tòa nhà cổ đủ màu sắc nối tiếp nhau đi về các hướng. Cũng như nhiều người khác, dù đã biết Venice qua sách báo phim ảnh, nhưng chúng tôi cũng không khỏi ngỡ ngàng khi được lênh đênh để chiêm ngưỡng khung cảnh của thành phố có một không hai này.
Sau 20 phút thì thuyền đưa chúng tôi đến khu phố trung tâm. Cũng như phía đất liền, ở đây hoàn toàn không có xe cộ. Trên những con đường rộng có nhiều khách sạn, nhà hàng, những quán cà phê vang lên những giai điệu trầm bổng từ những chiếc đàn violon truyền thống.
Chúng tôi tiến đến bến đò mua vé đi tham quan bằng đò nhỏ. Giá vé là 20 Euro/người. Hàng chục con đò nằm san sát dọc bến đợi khách, nhưng do số lượng khách du lịch quá đông, nên phải lần lượt chờ xuất bến. Chúng tôi phải chờ đợi hơn 15 phút mới có thể xuống đò. Những con đò được gọi là Gondola có hình dáng khá ấn tượng, hai mũi đò vươn cao và nhọn, mỗi chiếc chở khoảng 5-6 người. Lái đò là những thanh niên mặc quần đen, áo sọc ngang cũng màu đen.
Họ chèo đò chầm chậm đưa du khách lướt trên những dòng kênh nhỏ, ngoằn nghèo, len lỏi qua những dẫy nhà có nhiều hình dáng rất mỹ thuật và cổ kính. Càng tiến sâu vào Venice, chúng tôi như bị lạc vào mê cung của những con hẻm nhỏ toàn những ngôi nhà cao tầng nhiều màu sắc với ban công, cửa gỗ và được trang trí với nhiều chậu hoa xinh xắn.
Con đò lướt qua qua Dinh Tổng trấn, các dãy tòa nhà là cơ quan quản lý của chính quyền, tất cả được xây dựng theo phong cách rất cổ điển. Ngồi trên con đò nhỏ để chiêm ngưỡng thành phố Venice, khó mà tưởng tượng rằng được cả ngàn năm trước, con người đã xây dựng được một thành phố trên biển như thế này!
Anh thanh niên chèo đò cho chúng tôi rất vui tính. Thỉnh thoảng, anh lại cất lên vài câu ca vui nhộn mang giai điệu Tây phương tạo nên một không khí rất vui vẻ. Con đò chầm chậm trôi trên các dòng kênh nhỏ, thỉnh thoảng luồn qua các cây cầu đá ngắn hình vòng cung; những cây cầu có chức năng như những con đường, vì ở đây mọi hoạt động giao thông đều diễn ra hoặc trên nước hoặc là đi bộ, do đó Gondola chính là phương tiện giao thông đặc trưng nhất của Venice. Được biết thành phố này có hàng trăm hòn đảo nhỏ được nối liền với nhau bởi hơn 400 chiếc cầu gỗ và đá.
Qua khỏi các con kênh nhỏ là đi đến con kênh lớn. Ở đây, mặt nước như một dòng sông lớn, sóng nước dập dềnh với hàng chục chiếc đò qua lại dập dìu. Những tòa nhà uy nghi soi mình trên bóng nước, tất cả như một bức tranh tuyệt tác được con người tạo nên. Con kênh lớn này được gọi là Canal Grande và được mệnh danh như là đại lộ đẹp và độc đáo nhất thế giới.
Ngồi trên con đò dọc kênh lớn, chúng tôi được chiêm ngưỡng những kiến trúc rất độc đáo của các công trình nằm hai bên bờ kênh, đặc biệt là Cung điện Vàng (Ca’ d’Oro); dinh thự đẹp nhất Venice được xây bằng đá hoa cương nhiều màu và trang trí mạ vàng ở mặt tiền. Cây cầu Rialto danh tiếng, nơi dừng chân của các cặp tình nhân. Trên làn nước trong xanh tấp nập thuyền bè, những nhà hàng, khách sạn, quán rượu… san sát tạo nên một khung cảnh “chẳng nơi nào có được”.
Lịch sử của thành phố ghi chép vào năm 1105, Venice xảy ra một trận cháy lịch sử, toàn thành phố bị ngọn lửa nuốt chửng liên tục trong 24 giờ vì phần lớn nhà cửa được làm bằng gỗ. Sau đó, Venice đã được xây lại một cách kiên cố hơn với lối kiến trúc Gothic như ngày nay. Vào thời Trung cổ và Phục hưng, Venice nổi tiếng là thành phố hàng hải quan trọng của châu Âu.
Sự giao thoa văn hoá giữa Venice với Đế Quốc Đông La Mã đã để lại dấu ấn trong kiến trúc tinh xảo và lạ mắt của thành phố. Cái tên Venice (hay Venezia theo tiếng địa phương) bắt nguồn từ người Veneti cổ sống vào khoảng thế kỷ 10 TCN. Theo tiếng Latin, Venice có nghĩa là Tình yêu. Vì vậy, thành phố được mệnh danh là Thành phố tình yêu. Ngoài ra, Venice còn được biết đến với những “biệt danh” khác như thành phố nổi, thành phố của mặt nạ, thành phố của những cây cầu, thành phố kênh rạch…
Nằm ở điểm gặp nhau của các tuyến thương mại đường biển giữa một phần Tây Âu rộng lớn và vùng còn lại của thế giới, Venice trong quá khứ từng là một đế quốc hàng hải và một khu vực chuẩn bị cho các cuộc Thập tự chinh, cũng như là một trung tâm thương mại quan trọng của châu Âu thời kỳ Phục hưng…
Sau gần một tiếng đồng hồ chiêm ngưỡng Venice từ mặt nước, cả đoàn trở lại bến thuyền. Chúng tôi ghé vào một gian hàng để mua vài cái mặt nạ lưu niệm. Ở đây, mặt nạ là một sản phẩm rất được ưa chuộng. Nó được làm từ thạch cao, được trang trí cầu kỳ bằng lông vũ, dát giấy vàng và nạm đá rất ngộ nghĩnh. Venice nổi tiếng bởi lễ hội hóa trang diễn ra vào tháng 2 hàng năm. Tại lễ hội này, người dân và du khách sẽ cùng nhau diện những bộ trang phục, mặt nạ độc đáo và lộng lẫy, hòa theo tiếng nhạc rộn rã trên khắp các ngả đường.
Trước khi trở về, chúng tôi đến tham quan Quảng trường San Marco (Piazza San Marco). Quy mô hơn hẳn các quảng trường khác, trong một không gian mênh mông rộng lớn, Quảng trường San Marco nổi bật với những công trình kiến trúc đồ sộ và lộng lẫy, những cửa hàng mua sắm và những bảo tàng đặc sắc.
Nơi đây được coi là trái tim của Venice; nơi mà lúc nào cũng nườm nượp du khách và đã từng được tướng Napoleon gọi là “Phòng khách của châu Âu”. Được biết Tòa thánh Marco là nhà thờ đầu tiên được xây dựng nhằm tưởng nhớ đến người bảo trợ cho toàn thành. Truyền thuyết về thánh Marco rất thú vị. Trước đây, ông làm thủy thủ của một con tàu, con tàu không may bị đắm. Ông bị sóng đánh dạt vào một hòn đảo hoang không người sinh sống, trong lúc mơ màng, một thiên thần đã hiện lên trong giấc mơ và nói: “Ta ban cho con sự tự do”.
- Xem thêm: Tách cappuccino và bữa sáng ở Venice
Sau đó, ông tỉnh dậy và cứu sống được thêm một số người nữa. Từ đó, họ lập đàn xây ấp tạo nên Venice ngày nay. Khi mất, Marco được chôn cất tại Alexandria, nhưng người Venezia đã đánh cắp một xương ống chân của ông, đắp thịt lợn lên rồi chuyển về Venice. Biểu tượng của thánh Marco là tượng sư tử có cánh, tượng trưng cho sức mạnh của vị thần này.
Có thể nói rằng Venice rất xứng đáng với vinh dự là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới, vì ẩn chứa trong lòng nó biết bao điều kỳ diệu dưới chân những cây cầu hay trên dòng kênh xanh thẳm. Và từ rất lâu, người ta đã đặt câu hỏi: Venice sẽ có thể chìm dưới đáy biển không? Câu trả lời là có, nhưng không biết đến bao giờ!…