Còi là một phát minh khoa học không có sẵn trong tự nhiên in đậm dấu ấn sáng tạo của con người. Do đó, còi chính là sản phẩm văn hóa – Văn hóa còi.
Tất cả các loại còi, từ dùng bằng miệng thổi cho đến chấn động bằng hơi nước… đều có chung đặc điểm là tạo ra âm thanh bằng hơi. Về mặt vật lý, nó giống như các chủng loại nhạc khí hơi: kèn, sáo, khèn… xuất phát điểm nhằm mô phỏng giọng người. Giọng người cũng kích âm bằng hơi, vật thể phát thanh là dây thanh quản bị luồng khí làm chấn động phát ra âm thanh nhằm tạo ra tiếng nói, tiếng thì thầm hay tiếng hát… Vì thế, có thể coi còi giống như cái miệng của con người để chuyển tải nhiều thông điệp khác nhau.
Khi chiếc còi gióng lên, nó hướng sự chú ý tới nhiều ý nghĩa, như nhắc nhở mức độ nguy hiểm, triệu tập, kêu gọi hay đơn giản làm hiệu lệnh, báo giờ… Tất cả những nội dung trên đều thể hiện thuộc tính văn hóa, hàm chứa giá trị nhân văn của còi. Ở nước ta, còi xe máy, xe tải, xe buýt… dường như thường chú trọng về mặt âm lượng. Theo quy định an toàn giao thông, còi phải nghe rõ ở cự ly 100m. Có điều giao thông đô thị chưa thông thoáng đến độ 100m! Vì vậy, cự ly thực sự có giá trị trên xa lộ… có thể cảnh báo mức độ nguy hiểm của còi đặt trong bối cảnh đô thị chật hẹp chẳng còn tác dụng, thậm chí gây tai hại cho người xung quanh. Và vấn đề phái sinh của còi đã lan sang địa hạt khác thuộc khía cạnh ứng xử của người sử dụng còi – Còi văn hóa.
Chẳng hiếm những hình ảnh phổ biến, đầy nhan nhản nơi phố thị, người đi trái đường bấm còi lia lịa, người qua đường hú còi liên tục, người đi trong hẻm, trên vỉa hè, trước cổng trường học, bệnh viện cũng bấm còi, nói chung mọi lúc mọi nơi.
Về khả năng chịu đựng của cơ quan thính giác nói chung không nên vượt quá âm lượng 140 decibel. Theo quy định về còi của các phương tiện giao thông đường bộ không cho phép vượt ngưỡng 115 decibel. Trên thực tế, các loại còi phương tiện giao thông, chưa kể xe tải, xe cứu hỏa, chỉ riêng xe máy thôi đã vượt ngưỡng, có loại còi âm lượng lên tới 400 decibel. Tất nhiên, âm lượng còn tùy thuộc vào khoảng cách giữa nguồn âm và cơ quan thính giác tiếp nhận. Có điều, di chuyển trong điều kiện phố phường chật hẹp, người người chen chúc, âm lượng 400 decibel cộng hưởng nhau sẽ phát huy tối đa hiệu quả (cũng như hậu quả). Rõ ràng, tiếng còi xe máy lâu nay đã trở thành âm hình (hay còn gọi là âm hình tiết tấu nhằm chỉ mối tương quan giữa các trường độ nối tiếp nhau. Nhờ vào tính chu kỳ của âm hình mà người ta dễ dàng nhận biết được các vũ điệu như valse, disco, hip-hop…) chủ đạo trong bản tập tấu của thành phố chúng ta. Tác phẩm nhạc pop thịnh hành nhất hiện nay chính là bản “giao hưởng” “Còi xe máy”. Nó góp phần nâng cao số bệnh nhân tim mạch, huyết áp, ù tai, điếc tai, suy nhược thần kinh… ở các bệnh viện. Song, chủ nhân của những chiếc còi xe hầu như chưa ý thức được đầy đủ tác hại của nó.
Ý nghĩa của còi nằm ở giá trị biểu trưng, chứ không nằm ở âm lượng. Còi xe máy hay còi gì đi chăng nữa cũng nên hướng tới ý nghĩa sơ khởi mang giá trị nhân văn. Xưa kia, người nguyên thủy sống nơi rừng núi hoang vắng, họ cần tới tù và để truyền tin. Ngày nay chúng ta văn minh hơn, không phải phí hơi, tổn sức để tạo ra những âm thanh đã thuộc về dĩ vãng ấy. Xét từ thực tế, biết đâu ta còn rơi vào tình trạng lạc hậu hơn cả người xưa, biến những chiếc còi vốn mang sứ mệnh cao cả, cấp báo, truyền tin… thành thứ sản phẩm phản văn hóa, phi văn hóa, lợi bất cập hại… Ở châu Âu, nhiều nơi coi việc dùng còi xe hơi tùy tiện là chửi rủa người khác. Điều này cũng dễ hiểu khi mà còi từ lâu đã mang giá trị biểu trưng thay thế cho cái miệng con người. Ở ta, việc dùng còi khá tự do, thoải mái đến mức tùy tiện, bất kể những nơi cần sự yên tĩnh, thanh tịnh như trường học, bệnh viện, cơ sở tín ngưỡng… Hiện tượng loạn còi không chỉ gây tiếng ồn, nhiễu loạn âm thanh trên đường phố, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, mà còn biến đô thị thành trung tâm của tiếng ồn, làm méo mó hình ảnh của một thành phố văn minh. Luật không xử phạt người sử dụng còi trái phép, người tham gia giao thông không tự ý thức về hành vi sử dụng còi của mình. Tình trạng ấy sẽ gây tác hại đối với cả môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn. Còi từng là sản phẩm văn hóa, nhưng sử dụng như thế nào cho ra văn hóa mới thực là hành vi cần hướng tới ở nước ta.