Cố đô Huế có hai trường trung học có tuổi đời khá lâu. Đó là Quốc Học và Đồng Khánh. Trường Đồng Khánh tương đối trẻ hơn trường Quốc Học vì thành lập sau khoảng 20 năm. Cũng như Quốc Học, Đồng Khánh tọa lạc trên công thổ của trại Thủy Binh Võ Doanh Thủy Sư dưới triều Nhà Nguyễn.
Về việc thành lập trường, sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Thất Kỷ của Quốc Sử Quán triều Nguyễn chép:
“Năm 1917 – Thiết lập trường Nữ học Đồng Khánh. Ở kinh và các tỉnh Trung Kỳ vài năm gần đây cũng đều có trường để dạy học trò nữ, duy lúc ấy trường nữ học mới bắt đầu tổ chức, quy chế chưa đầy đủ hoàn bị nên tiến hóa so với Bắc Kỳ và Nam Kỳ có kém hơn. Đến lúc ấy quý Toàn quyền đại thần tới kinh bàn xây trường nữ học cạnh trường Quốc học phía nam sông Hương ở ngoài kinh thành, quy mô to lớn giống như trường Quốc học. Ngày 27 tháng ấy, tức 15-7 Tây lịch làm lễ đặt viên đá đầu tiên, quý quan Nam quan cùng vợ và con gái các quan tới dự rất đông. Vua ngự giá tới cùng quý Toàn quyền đại thần chủ trì buổi lễ” (Biên dịch: Cao Tự Thanh, xb 2011, tr. 155).
Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường này diễn ra vào ngày 15 tháng 7 năm 1917 với sự hiện diện của vua Khải Định, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut, Khâm sứ Trung Kỳ J.E. Charles, quyền Khâm sứ Bắc Kỳ J.Le Galler;các hoàng thân, các vị thượng thư và một số quan chức cao cấp người Pháp tại Đông Dương.
Một điều hết sức đặc biệt là trong buổi lễ này, vua Khải Định đã cho đặt xuống móng ngôi trường một số hiện vật để làm kỷ niệm, gồm một cái hộp kim loại chứa 9 đồng Khải Định thông bảo và hai tờ giấy ghi biên bản của buổi lễ bằng tiếng Pháp.
Về những di vật này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An cho biết: Tháng 11 năm 2001, trường thực hiện việc trùng tu một số dãy phòng học, khi công nhân đào móng ở dãy nhà chính để gia cố, họ thấy được một cái hộp bằng kim loại, trong đó có chứa 9 đồng tiền cũng bằng kim loại và một văn bản chữ Pháp viết tay ghi niên đại 1917. Cái hộp được đặt dưới một viên đá thanh. Tất cả các đồng tiền đều còn tốt, các nét hoa văn và chữ Hán đều rõ ràng. Tuy có đề bốn chữ “Khải Định thông bảo”, nhưng không phải đúc ra để lưu hành mà chỉ được đúc ra để nhà vua ban tặng. Đó là những đồng “tiền ban”.
Riêng bản văn bằng tiếng Pháp viết tay, chữ rất đẹp; đó là biên bản buổi lễ đặt đá đầu tiên để xây dựng trường. Do chiếc hộp bị thấm nước lâu này nên đã văn bản đã hư rách, bị nhòe nhiều chỗ, không còn đọc rõ được toàn văn. Tuy nhiên, biên bản này cũng đã được công bố trên tập san Đô Hiếu cổ thành (Bulletin des Amis du Vieux Hué) số 4, tháng 10-12 năm 1917.
Bản dịch như sau:
“Hôm nay, ngày 15-7-1917, vào lúc 17 giờ, ông Albert Sarraut, Toàn quyền Đông Dương và Hoàng thượng Khải Định, vua An Nam đã đặt viên đá đầu tiên để xây dựng trường Nữ sinh ở Huế, trường Đồng Khánh, với sự hiện diện của ông J.E Charles, Khâm sứ Trung Kỳ, của các Điện hạ Hoàng thân Tuyên Hóa và Hưng Nhơn, của các quan lớn Tôn Thất Hân, thượng thư Bộ Hình; Nguyễn Hữu Bài, thượng thư Bộ Lại kiêm Bộ Hộ; Hồ Đắc Trung, thượng thư Bộ Học kiêm Bộ Lễ; Đoàn Đình Duyệt, thượng thư Bộ Công kiêm Bộ Binh; của các ông J. Le Gallen, quyền Tổng Biện Lý, Chánh sở Tư pháp Đông dương; P.A.M Pasquier, Đổng lý Văn phòng và Nhân sự của phủ Toàn quyền; Carllotti, Công sứ Pháp ở Thừa Thiên, và Hoppe. Quyền Kỷ sư trưởng khu Địa chính của sở Công chánh Trung Kỳ cùng tất cả dân chúng người Âu và bản xứ ở thành phố Huế”.
Ngay sau biên bản là một loạt chữ ký của các chức sắc Việt – Pháp tham dự buổi lễ; từ vua Khải Định, toàn quyền Albert Sarraut và các quan chức khác…
Dưới sự điều khiển của nhà thầu Leroy, hơn hai năm sau, ngôi trường khánh thành. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh cả 13 tỉnh Trung Kỳ bấy giờ đến học. Lễ khánh thành nhà trường trùng với lễ khánh thành Bia Kỷ niệm chiến sĩ trận vong trước Trường Quốc Học, và có sự hiện diện của nguyên Thủ tướng Pháp Painlevé (Thủ tướng từ 9-1917 đến 11-1917) cùng nhiều quan chức khác. Sách Đại Nam thực lục chép:
“Tháng 7 Khải Định thứ 5 (1920): Nguyên thủ tướng nước Đại Pháp Painlevé mới tới Đông Pháp, kế cùng Toàn quyền đại thần Long tới kinh yết kiến nhân dịp khánh thành bia kỷ niệm trận vong và Trường nữ học Đồng Khánh. Kế vua ngự giá tới Tòa Khâm sứ thăm hỏi và tặng các đại hiến Thủ tướng Toàn quyền kim khánh hạng lớn nhất đều một tấm. Hôm sau quý Thủ tướng tới Đà Nẵng đáp tàu máy về nước…” (ĐNTL chính biên Đệ thất kỷ, tr. 300).
Kiến trúc của trường mang phong cách kiến trúc Pháp, nhưng với việc sử dụng một tỷ lệ lớn mái dốc, và nhất là hệ thống hiên mái, ngôi trường không những phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm của Huế , mà còn gợi bóng dáng và tỷ lệ của kiến trúc truyền thống Việt Nam.
- Xem thêm: Người phụ nữ Đức sống với di sản Huế
Phía trước trường là đường Lê Lợi, thời Pháp là đường Jules Ferry. Lề đường lót bằng xi măng đúc thành ô vuông, dọc đường có hàng cây long não xanh mát chạy dài xuống gần cầu Trường Tiền. Bên kia đường là bờ sông được biến cải thành vườn hoa, có ghế đá, có giàn hoa đỏ tím, khá xinh và thơ mộng. Cũng như Trường Quốc học ở bên cạnh, vị trí của Trường Đồng Khánh là một vị trí tuyệt hảo: Trước sông, sau núi, bên kia sông là kỳ đài sững sững trước mắt với là quốc kỳ tung bay, hằng ngày như nhắn nhủ các thế hệ học sinh đừng bao giờ quên nhiệm vụ đối với giang sơn đất nước.
Tương tự như kiến trúc Trường Quốc Học, hai bên sân trường có dãy nhà lầu, giữa có nhà chơi. Trường cũng sơn màu hồng nhưng dáng dấp thanh nhã hợp với bản chất phụ nữ hơn. Khuôn viên trường rộng rãi, thoáng mát, kiến trúc khang trang và đầy đủ tiện nghi cho một cơ sở giáo dục. Trường có hai dãy lầu phía đông và tây đối diện nhau, tầng trên là tầng ngủ dành cho học sinh nội trú và tầng dưới là tầng học, đôi đoạn có thêm tầng ba là chỗ ở của nữ giám thị, phần cuối hay dãy lầu là nhà chơi có mái che, phía sau là sân vận động.
Theo kiến trúc ban đầu, trong trường còn có văn phòng, thư viện, bệnh xá, phòng thí nghiệm, phòng nhạc, phòng nữ công gia chánh, nhà bếp… tất cả được quét bằng vôi màu hồng thắm. Kể từ khi thành lập đến nay, nhà trường đã gia cố hay xây dựng thêm một số công trình phục vụ dạy và học, tuy nhiên dáng vẻ ngôi trường nói chung và diện mạo cổng trường nói riêng không thay đổi đáng kể.
Trong suốt khoảng thời gian từ khi thành lập đến năm 1975, Đồng Khánh là trường nữ duy nhất ở miền Trung dạy đủ các môn: Văn-Thể-Mỹ-Hạnh và Lao động kỹ thuật. Ngoài việc học văn hóa và nữ công gia chánh (may vá, thêu thùa, làm bánh, làm mứt…), nữ sinh Đồng Khánh còn được học cách nuôi con, cách quản lý gia đình, được rèn luyện phong cách người con gái có học thức, có giáo dục, giản dị, trang nhã, lịch sự, khiêm tốn, tế nhị trong giao tiếp và được học một số môn học cơ bản về thường thức cứu thương.
Như đã trình bày ở trên, Trường Đồng Khánh ban đầu chỉ có bậc Tiểu học, sau thêm Trung học đến lớp Đệ Tứ (lớp 9 bây giờ); mãi đến năm 1956, bậc Tiểu học được bãi bỏ chỉ còn lại bậc Trung học và từ đó mang tên là “Nữ Trung học Đồng Khánh”.
Những năm đầu tiên của trường, nữ sinh mặc đồng phục màu tím nên trường được gọi là Trường Áo tím. Về sau, cũng dưới thời Pháp thuộc đồng phục được đổi thành màu xanh nước biển. Về sau, đồng phục của học sinh được đổi thành màu trắng.
Trong một thời gian dài, với vị thế của mình, Trường Đồng Khánh là một trường nữ sinh trung học có uy tín vào bậc nhất ở miền Trung. Trường đã đào tạo những phụ nữ sáng giá, những người mẹ hiền, người vợ kiểu mẫu và là những công dân xứng đáng, góp phần không nhỏ cho đất nước và xã hội. Cũng như Trường Quốc Học, Trường Đồng Khánh đã tạo nên một truyền thống giáo dục tốt đẹp; do đó nhiều nữ sinh thế hệ trẻ luôn tỏ ra xứng đáng với các thế hệ đàn chị, xứng đáng với công lao dạy dỗ của các thầy cô. Trong số đó những người đã góp phần tạo dựng nên truyền thống ấy, cần phải kể đến công sức các vị giáo sư và hiệu trưởng nhà trường.
- Xem thêm: Giấy vàng xưa vẫn truyền gia bảo
Sau hơn 100 năm tồn tại, Trường Đồng Khánh như một chứng nhân của lịch sử mãi soi bóng bên dòng sông Hương xứ Huế. Dù sống ở đâu và cho dù tuổi tác đã nhuộm trắng mái đầu, các thế hệ cựu học sinh Đồng Khánh đều có chung một ý nghĩ là rất tự hào về mái trường thân yêu của mình. Có thể nói rằng, trong ký ức của nhiều thế hệ, trường Đồng Khánh luôn được coi là biểu tượng của thiếu nữ trinh nguyên, của mượt mà trí tuệ, của thơ nhạc, của tâm hồn và trái tim xứ Huế…; tất cả điều đó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của cả vùng đất Cố đô.