Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu – Phó giám đốc Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện ĐH Y Hà Nội là một bác sĩ còn khá trẻ (sinh năm 1972) nhưng là một trong những người được bệnh nhân tin tưởng tìm đến nhiều nhất.
Họ tìm đến anh không đơn thuần là vì anh có trình độ chuyên môn cao mà còn bởi cách anh hỏi chuyện, thăm khám một cách ân cần, chu đáo, cởi mở. Có lẽ, điều làm nên tính cách “mẹ hiền” cũng như khả năng sáng tạo trong nghề nghiệp ở người thầy thuốc này là do anh thừa hưởng được một nền giáo dục rất cơ bản: Ông nội anh là Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân; ông ngoại là GS Nguyễn Văn Huyên, nhà văn hóa, từng là bộ trưởng Bộ Giáo dục suốt 29 năm. Đến tuổi đi học, anh lại được tiếp cận ngay với một phương pháp giáo dục tân tiến của GS-TSKH Hồ Ngọc Đại, luôn lấy học trò làm trung tâm. Đã từng say mê, yêu thích và ước mơ trở thành họa sĩ, nhưng cơn bạo bệnh của bà ngoại (bà Vi Kim Ngọc, họa sĩ có tranh trong sưu tập của bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam – PV) đã khiến anh nghĩ lại và chọn nghề y với khát khao có thể làm giảm những cơn đau kinh khủng của bà do bệnh ung thư… Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu cũng là một trong số rất ít bác sĩ Việt Nam thường xuyên nhận được lời mời đi xử lý những ca khó của bệnh tim mạch ở trong nước cũng như trong khu vực. Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra trước khi anh lên đường vào TP. Hồ Chí Minh và sau đó là đi Philippines để thực hiện những sự hỗ trợ đó.
____
Được biết, anh là một thành viên tích cực ở Quỹ “Trái tim cho em” do Viettel, VTV và tổ chức Đông Tây hội ngộ sáng lập, vậy vai trò của anh ở quỹ này như thế nào?
Ngoài việc tham gia mổ những ca khó, nhiệm vụ chủ yếu của tôi là sàng lọc mức độ cần kíp của bệnh nhân để tránh tình trạng xếp hàng thứ tự theo kiểu ai được duyệt hồ sơ trước thì mới mổ trước. “Cứu bệnh như cứu hỏa” – có bệnh nhân được duyệt hồ sơ sau nhưng tình trạng bệnh đã ở mức cần cấp cứu, ngược lại, có người được duyệt hồ sơ sớm nhưng bệnh chưa đến mức phải can thiệp ngay. Sau đó, gửi bệnh nhân đến các bệnh viện cho phù hợp giữa tình trạng chuyên môn và tình trạng bệnh tật, giữa tình trạng kinh tế của mỗi gia đình với sự hỗ trợ từ Quỹ… Vì không phải bệnh viện nào cũng được mổ miễn phí.
____
Đó cũng là lý do để nhóm các anh có một Quỹ riêng nhằm cứu giúp những hoàn cảnh đặc biệt?
Vâng, Quỹ do tôi cùng bạn bè và một số Tổ chức quốc tế thành lập. Quỹ không có tên, ngoài những người làm chuyên môn chỉ có thêm một chị làm thủ quỹ. Mỗi năm quỹ này mổ cho khoảng 30-40 cháu. Vì là làm cho trẻ em nên rất dễ xin tiền, hơn nữa, chúng tôi biết rất rõ bệnh nhân nào nghèo hay không, không phải mất thì giờ qua quá nhiều thủ tục. Bên cạnh đó, chúng tôi có quan hệ rất tốt với bạn bè đồng nghiệp quốc tế nên có những người bạn ở nước ngoài chuyên gom đồ nghề để giúp cho. Do vậy, chưa bao giờ chúng tôi để bệnh nhân cần cấp cứu nhưng vì nghèo mà không được chữa trị. Cũng chưa bao giờ có bệnh nhân vì không có tiền mà phải bị chết hoặc phải mổ mở ngực (với chi phí thấp hơn).
____
Là chuyên gia trong lĩnh vực can thiệp tim bẩm sinh. Anh đánh giá thế nào về trình độ chuyên môn ấy ở nước ta hiện nay?
Việc can thiệp tim bẩm sinh thực sự bùng nổ vào năm 1997, khi người ta nghĩ ra một dụng cụ bằng kim loại nhớ hình (có thể kéo nhỏ, luồn vào những tĩnh mạch, nhưng khi thả ra, nó lại trở lại hình dạng ban đầu). Tôi có may mắn đi học ở Pháp về từ năm 2000, đúng lúc công nghệ ấy đang phát triển mạnh nhất, do vậy có thể nói mình không bị chậm so với thế giới. Số lượng bệnh nhân đuợc can thiệp hiện đang đứng đầu Đông Nam Á. Ngành can thiệp tim bẩm sinh luôn cập nhật được các công nghệ mới nhất của thế giới. Những gì thế giới làm được thì mình lập tức triển khai, thậm chí có những việc thế giới chưa làm, mình đã tự nghiên cứu làm trước. Ví dụ như việc thông liên thất chẳng hạn. Phía Mỹ người ta chưa thông tâm nhĩ thất, hiện nay cả Đông Nam Á này, chỉ có Việt Nam là nơi làm nhiều nhất. Dụng cụ thông liên thất do bác sĩ Lê Trọng Phi (hiện đang sống ở Đức) nghĩ ra, gọi là Lê Coil – Việt Nam là nơi ứng dụng đầu tiên trên người. Sau này, dựa vào đó chúng tôi đã cải tiến thành một dụng cụ khác, chi phí rẻ một nửa và hiện đang được ứng dụng rất tốt ở trong nước cũng như ở nước ngoài, chưa gây ra biến chứng gì, đặc biệt là biến chứng rối loạn nhịp tim muộn gây đột tử cho người bệnh sau khi đã điều trị. Việc cải tiến này đã được công bố tại Hội nghị khoa học quốc tế, các đồng nghiệp rất thích thú với phương pháp này bởi vì ngoài việc không gây biến chứng, nó còn rút ngắn được thời gian thực hiện từ hơn 2 giờ xuống còn 15-30 phút/ca. Tóm lại, mức độ hội nhập của mình với thế giới về can thiệp tim bẩm sinh là khá cao, gần như ngang nhau và có nhiều cơ hội trao đổi chứ không phải chỉ là học hỏi nữa. Việc bắt kịp thế giới về can thiệp tim bẩm sinh mang lại nhiều ích lợi: Chẳng hạn như không để lại sẹo, an toàn hơn và thời gian nằm viện cũng ít hơn (hơn 1 ngày). Người được hưởng lợi nhiều nhất là trẻ em. Ở nước ngoài chi phí cho một ca can thiệp tim bẩm sinh rất đắt. Nhưng ở Việt Nam, nhờ có sự cố gắng của bệnh viện, các hãng và của cả đội ngũ bác sĩ nữa nên chi phí là rất rẻ so với các nước khác. Nếu ở Singapore, Malaysia, Thái Lan, thủ thuật nội soi này đòi hỏi chi phí cao hơn nhiều so với mổ mở, nhưng ở Việt Nam chi phí bằng hoặc thậm chí còn rẻ hơn.
Bác sĩ, ngoài chuyện học vấn còn cần phải có tay nghề cao nữa. Mà muốn có tay nghề cao thì phải được thử thách, phải được cọ xát.
____
Chương trình hỗ trợ mổ tim bẩm sinh ở Ấn Độ do anh làm giám đốc đã kết thúc chưa?
Chương trình ở Ấn Độ coi như đã kết thúc, hiện thỉnh thoảng tôi mới phải sang để hỗ trợ những ca khó. Ấn Độ giàu nhưng phân hóa mạnh. Người giàu thì đi Mỹ, Anh, Pháp, Đức chữa bệnh. Người nghèo thì được bác sĩ Việt Nam chữa… từ thiện. Đây là sáng kiến của một bác sĩ người Ấn Độ, ông ấy rất giỏi về chữa bệnh tim ở người lớn, sang Việt Nam, ông thấy chúng ta chữa cho trẻ con giỏi quá bèn mời sang làm chương trình cho trẻ em bẩm sinh ở các tỉnh của Ấn Độ. Chúng tôi đã tiến hành, phối hợp hướng dẫn, chuyển giao công nghệ ở 13, 14 thành phố. Hiện nay đã có vài thành phố tự làm được rồi. Đi làm các chương trình ấy về, tôi có những trải nghiệm khác nhau, trong đó thấy rõ bệnh nhân ở nước mình vẫn còn may mắn hơn rất nhiều. Một vài báo cáo tại Hội nghị khoa học gần đây dựa trên số liệu của tôi cho thấy, việc đầu tư, chăm sóc cho trẻ em bị tim bẩm sinh ở Việt Nam là đứng ở hàng nửa phía trên so với các nước khác.
____
Dư luận xã hội có rất nhiều ý kiến trái chiều về đội ngũ thầy thuốc ở ta hiện nay. Không ít người còn tỏ ra thiếu tin tưởng vào trình độ chuyên môn cũng như y đức nói chung. Theo anh, vấn đề nào đặt ra cho đội ngũ thầy thuốc ở ta?
Ở các bệnh viện công rất nhiều bác sĩ, nhưng các vị trí chính thức thì rất ít người được giao việc, nghĩa là môi trường để phát triển sẽ không có. Bệnh viện tư thì không thể giỏi được vì ít được chữa các ca khó. Thành ra bác sĩ, ngoài chuyện học vấn còn cần phải có tay nghề cao nữa. Mà muốn có tay nghề cao thì phải được thử thách, phải được cọ xát. Môi trường đào tạo ở Việt Nam bị hạn chế, chỉ có quanh quẩn ở một số bệnh viện công, một người thầy có tới hàng chục trò thì làm sao có thể giỏi được. Tôi có thể khẳng định, người sẵn sàng bỏ tiền ra để làm bệnh viện tư rất nhiều nhưng bác sĩ có chuyên môn thì rất ít để có thể đáp ứng được yêu cầu của các bệnh viện này. Đây rõ ràng là vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao ở ngành Y tế. Nhân lực phổ thông rất nhiều, hiện có không ít các bệnh viện có đào tạo y tá. Quá nhiều y tá nhưng lại rất hiếm y tá giỏi. Chúng ta chưa có chuẩn quốc tế về đào tạo. Hằng năm có hàng ngàn y tá ra trường nhưng không ai có thể đi làm việc được ở nước ngoài theo tiêu chuẩn chung, nếu đi thì phải đào tạo lại, thi lại. Trong khi đó vai trò của y tá cũng cực kỳ quan trọng. Một y tá chuyên nghiệp giúp cho bệnh nhân nhiều hơn một người bác sĩ mới ra trường…Hiện không có ai nghĩ đến việc xây dựng một môi trường đào tạo chuyên nghiệp, quốc tế hóa ở Việt Nam.
Điều này cũng phải thôi vì ngành y vẫn nằm trong hệ thống giáo dục đào tạo chung của cả nước – một hệ thống gây tranh cãi nhiều nhất, tốn tiền của đầu tư, tìm cách cải tiến nhiều nhất, nhưng vẫn chưa tìm được hướng đi đúng cho mình…
Hiện nay, rất nhiều tổ chức, cá nhân sẵn lòng làm từ thiện, nhất là ở hai lĩnh vực Giáo dục và Y tế. Nhưng lại có nghịch lý là nếu người ta có quyên đủ tiền để xây dựng một bệnh viện hiện đại nhất Đông Nam Á thì cũng không có bác sĩ giỏi để làm việc. Đây là hậu quả của nền giáo dục từ 20 năm trước đến nay và không chỉ có vậy, nó sẽ còn di hại đến vài chục năm sau. Đó là một nền giáo dục y tế học vẹt: Thầy dứt khoát là phải giỏi hơn trò. Tôi cũng đi dạy cho sinh viên, và luôn phải nói: “Tôi nói thế này, may lắm thì chỉ đúng khoảng 90% thôi. Các em không thể coi những điều tôi nói là chân lý, vì như thế các em không bao giờ giỏi bằng tôi được. Thế thì càng ngày y tế càng dốt đi à ”. Có một thực tế nghịch lý như thế này: Phải rất giỏi, rất thông minh mới vào ngành y được. Thế nhưng sau 6, 7 năm học, ra trường, trong xã hội, nhiều người cho là không có bác sĩ giỏi. Lỗi do đâu? Lỗi do ngành giáo dục chứ do đâu. Anh không kích thích để cho sinh viên có tinh thần ham học như ngày xưa. Thời mà mỗi người buộc phải học thật giỏi một cách toàn diện . Bây giờ chỉ thích học những gì kiếm được tiền thật nhanh. Ít có người nghiên cứu chuyên môn thật giỏi , vì như vậy phải đầu tư nhiều thời gian, hiệu quả đến rất chậm. Điều ấy cực kỳ nguy hiểm vì không tạo ra được tài năng cho đất nước… Có điều tôi nhận thấy những năm gần đây, học trò của tôi cũng đã có chiều hướng thay đổi tư duy, đã chú ý đến việc rèn luyện tay nghề cho “tinh´ hơn.
Phải tư nhân hóa y tế một cách có bài bản. Nghĩa là các bệnh viện tư có điều kiện về cơ sở vật chất nhưng phải được đào tạo về chuyên môn kỹ càng.
____
Thế thì chúng ta phải làm thế nào để bác sĩ tâm huyết với nghề nếu như đồng lương không đủ sống?
Tôi có thể khẳng định là hiện nay, nếu giỏi chuyên môn thực sự thì vẫn sống tốt, vì người ta vẫn dễ dàng “nhận” ra. Anh cứ làm một ca làm phúc thôi thì tự nhiên sẽ có 2-3 ca người ta tự tìm đến anh. Tôi chưa thấy người nào giỏi chuyên môn mà nghèo cả. Đừng bao giờ lo là Nhà nước có đãi ngộ tốt hay không?
____
Theo anh, khó khăn lớn nhất của y tế hiện nay ở ta là gì?
Cơ chế có vấn đề, không phải cơ chế quản lý từng phần mà cơ chế cho đường ra chính thức. Nhà nước ta đề ra hướng đi của ngành y tế là “xã hội hóa”, làm sao phải xã hội hóa y tế một cách rõ ràng. Tôi là người làm thực tế, tôi thấy sai lầm ở chỗ cho phép tư nhân hóa một phần trong bệnh viện công. Như thế chẳng qua là mình đã bán thương hiệu bệnh viện. Tôi lấy ví dụ đơn giản: Trước đây nhà nước bỏ tiền ra mua máy móc, trang thiết bị thì người sử dụng vẫn là người bác sĩ trong bệnh viện, người được hưởng công nghệ là bệnh nhân. Bây giờ xã hội hóa có nghĩa là một tư nhân nào đó bỏ tiền ra mua máy móc, người sử dụng vẫn là những người bác sĩ ấy, đối tượng phục vụ vẫn là những bệnh nhân ấy, nhưng đương nhiên, phải chi trả lợi ích cho người đầu tư, do vậy lợi ích của bệnh nhân sẽ bị thiệt thòi. Phải tư nhân hóa y tế một cách có bài bản. Nghĩa là các bệnh viện tư có điều kiện về cơ sở vật chất nhưng phải được đào tạo về chuyên môn kỹ càng. Riêng ngành Tim mạch, tôi thấy Bệnh viện Tâm Đức ở TP. Hồ Chí Minh là một mô hình tốt. Đây là một bệnh viện tư nhân hóa 100% nhưng họ được sự hỗ trợ của Viện Tim TP. Hồ Chí Minh xây dựng về chuyên môn nên rất vững. Y tế tư nhân hiện đang gặp vấn đề lớn nhất là họ sẵn sàng bỏ tiền để xây dựng cơ sở vật chất nhưng lại không được ai giúp đỡ về chuyên môn. Bên cạnh đó, ngành y tế lại rất hay chỉ trích y tế tư nhân, ví dụ nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra thì không có ai bảo vệ, bênh vực cho họ. Do vậy, các chính sách của Nhà nước cũng phải bảo vệ cho họ. Vì bác sĩ cũng là con người, nên cũng có thể mắc sai lầm, nếu ai đó bị kiện rồi thì sẽ ngại ngùng hoặc không dám làm những ca khó, mà như thế thì không bao giờ giỏi lên được. Y tế tư nhân không phát triển lên được vì vướng vào vòng luẩn quẩn. Làm sao phải kết hợp được hỗ trợ được chuyên môn để bệnh viện tư mạnh như bệnh viện công. Lúc ấy thì mới có thể giảm tải được bệnh viện công, nâng cao được sự cạnh tranh, nâng cao được chất lượng điều trị… Do vậy, tôi thấy khó khăn lớn nhất là chưa tìm được đường đi đúng cho việc phát triển y tế ở Việt Nam.
____
Ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay Bệnh viện FV đã mua bảo hiểm rủi ro cho bác sĩ. Theo đó, trong quá trình điều trị nếu xảy ra rủi ro cho bệnh nhân thì bảo hiểm sẽ đền bù về tài chính, điều này ít nhất cũng khiến bác sĩ mạnh dạn hơn trong chữa trị. Anh nghĩ sao về biện pháp này?
Đó cũng là bước đi cần thiết của ngành y tế Việt Nam. Trên thế giới và ngay cả nhiều nước trong khu vực như Phlippines, Malaysia, Singapore, Indonesia, Thái Lan… cũng đã thực hiện việc này từ lâu rồi.
Tôi đã gặp rất nhiều các bệnh nhân chỉ thiếu một lượng tiền rất nhỏ (mà bảo hiểm y tế không chi trả 100%) đã có ý định không điều trị nữa và người nhà đưa bệnh nhân về.
____
Thế còn chế độ bảo hiểm y tế? Là thầy thuốc, chắc hẳn phải có lúc anh áy náy khi phải kê thuốc cho bệnh nhân nghèo theo chế độ bảo hiểm mà bản thân mình biết chắc rằng giá như có thuốc tốt hơn thì tình trạng bệnh của họ sẽ nhanh chóng tiến triển tốt hơn… Theo anh, chế độ bảo hiểm y tế ở ta có cần thay đổi?
Chế độ bảo hiểm y tế hiện nay với điều trị bệnh tim bẩm sinh ở Việt Nam là tốt, thậm trí tốt hơn so với một số nước trong khu vực mà tôi có điều kiện sang can thiệp (Philippines, Indonesia ..,). Tuy nhiên việc tiếp tục tìm ra những phương hướng tốt hơn trong tương lai là rất quan trọng. Theo tôi, đơn vị bảo hiểm y tế và các đơn vị chuyên môn cần thường xuyên gặp gỡ bàn bạc để có những sự thay đổi điều chỉnh những phát sinh mới xuất hiện trong sự tiến bộ của y học hiện đại. Ngoài ra sự phối hợp giữa các tổ chức từ thiện và bảo hiểm y tế có vai trò rất quan trọng trong việc điều trị từng trường hợp bệnh nhân cụ thể. Tôi đã gặp rất nhiều các bệnh nhân chỉ thiếu một lượng tiền rất nhỏ (mà bảo hiểm y tế không chi trả 100%) đã có ý định không điều trị nữa và người nhà đưa bệnh nhân về, lúc này nếu có sự phối hợp giữa các tổ chức từ thiện việc điều trị sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Chúng tôi đã áp dụng mô hình này tại Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Viện Tim Hà Nội, Bệnh viện Đà Nẵng … rất thành công.
____
Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện.
Xem thêm: