Ngồi uống nước trà, hồi tưởng lại mà thương mà nhớ quảng thời gian hồn nhiên tuổi học trò. Vô tư không biết buồn lo, không biết gì về nỗi vất vả nhiêu khê của cha mẹ thức khuya dậy sớm mua bán kiếm tiền lo cho con miếng ăn cái mặc để con được đến trường. Tuổi thơ chỉ biết lo học, vui chơi, thích ăn quà vặt.
Mỗi đứa trong lũ bạn tôi đều có niềm đam mê thích ăn hàng vặt khác nhau phù hợp với túi tiền ba má cho. Có đứa thích ăn món kẹo bông gòn, món kẹo được làm từ đường cát trắng. Người đàn ông chạy chiếc xe gắn máy hiệu Sark của Đức, phía sau đuôi xe là cái thùng thiết tròn, rộng, ngay tâm của thùng có một phễu tròn được lắp với trục quay. Khi bọn tôi tới bu quanh xe, tò mò say mê nhìn ông thao tác với sự hiểu biết của tuổi thơ luôn nghĩ ông có phép thuật.
- Xem thêm: Ký ức sắn quê
Ông múc 3 muỗng đường cát trắng cho vào phễu, bấm nút moteur hoạt động, tức thì chiếc phễu quay tròn cùng độ nóng của ngọn lửa khí đá khè bên dưới, các hạt đường nóng chảy bắn ra hai bên vách thùng theo luật li tâm, gặp phải không khí, gió, chúng đọng lại thành những sợi chỉ trắng như… bông gòn. Tùy theo 5 cắc hay 1 đồng, ông gắp miếng lớn hay nhỏ. Đợi chờ và hớn hở giành nhau để được lấy trước, hấp tấp cho miếng bông gòn ấy vào miệng, chất đường tan ra như nghe những âm sè… sè… ngọt lịm, tan trên đầu lưỡi.
Vậy mà chưa đã thèm còn tiếc, thè chiếc lưỡi ra khỏi miệng liếm, tém hai bên mép những sợi bông ngọt còn bám bên ngoài. Có khi lại thích món bò bía mặn của ông già người Hoa, đẩy chiếc xe với chiếc chảo đặt trên lò lửa than cháy riu riu để xào những cọng củ sắn, củ cải đỏ với tôm khô. Tay ông thành thục, nhanh nhẹn theo những lời hối thúc của bọn trẻ. Từng miếng bánh tráng được đặt lên chiếc thớt gỗ mỏng hình chữ nhật, ông cầm chiếc kẹp sắt, loại kẹp người ta dùng gắp nước đá cho vào ly bia.
Ông gắp những cọng củ sắn, cải đỏ xào với tôm khô cho lên mặt bánh tráng, thêm hai khoanh lạp xưởng cắt mỏng, một chút tương hột xay, những ngón tay khéo léo, thoăn thoắt khép mép miếng bánh bên trái, bên phải rồi cuốn tròn. Chúng tôi cắn ngập chân răng cuốn bò bía, nước xào và tương xay trào ra hai bên khóe miệng, bám màu nâu đen như vừa mọc râu non. Nhai ngấu nghiến chất ngọt thơm của củ sắn, tôm khô, lạp xưởng và tương xay hòa huyện nhau ngon tuyệt trần.
Khi ăn bò bía mặn xong thì tới chiếc xe bán nước đá bào xi rô của dì Tư. Muốn uống tại chỗ thì đứng quanh xe của dì cầm ly mà uống, còn đem đi thì dì bào nước đá nhuyễn rồi cho vào chiếc ly bằng nhựa, dùng tay nhấn chặt lớp mặt nước đá, sau đó trút ra nguyên khối nước đá bào hình chiếc ly, dì cầm chai xi rô, xịt đều khắp lên chiếc ly bằng nước đá, món này gọi là nước đá nhận. Có đủ màu, xanh, vàng, đỏ,… và mỗi màu có hương thơm khác nhau, đứa nào thích màu nào thì nói với dì. Hí hửng, mỗi đứa cầm một cục đá nhận, vừa đi vừa trò chuyện, giỡn hớt vui cười vừa mút sột sột chất ngọt si rô trong cục đá.
Vài ba hôm thì đổi khẩu vị với món bò bía ngọt của ông chệt già, người cao ốm lêu khêu. Ông mặc chiếc áo sơ mi, quần sọt, đầu đội chiếc nón rộng vành, vai ông đeo chiếc thùng thiết vuông có nắp đậy, tay cầm một ống thiết tròn, dài, không biết bên trong chứa gì mà khi ông lắc lên lắc xuống phát ra thứ âm thanh sạt sạt rất gần gũi, thân quen, kích thích vị giác thèm ưa ứa nước bọt trong miệng.
Chúng tôi bu quanh ông, đứa nào cũng giành phần đưa trả tiền trước, ông đều nhận, đưa mắt quan sát thầm đếm từng cái đầu tóc hôi mùi khét nắng của bọn trẻ chúng tôi. Không nói gì, tay ông lấy từng miếng bánh na ná bánh tráng, nhưng da nó sùi không bóng và có độ dẽo khô, rồi bẻ một thanh kẹo màu trắng đặt lên mặt bánh, chút dừa khô nạo, chút mè đen rang, cuốn lại. Món này ăn rất ghiền vì mùi thơm của mè rang, béo của dừa, ngọt của kẹo và bùi bùi của bánh.
Đặc biệt, mấy đứa chúng tôi, đứa nào cũng mê tít thò lò cái món gỏi đu đủ bào, khô bò, gan bò khô của chú Tệt người Hoa. Rất dễ nhận dạng ra chú, thân người cao trung bình, mập, trên đầu nội chiếc nón cối bằng nhựa màu trắng đã ố màu thời gian, măc chiếc quần sọt màu xanh dương, chiếc áo ka-ki màu vàng giống như những anh hướng đạo sinh thường mặc. Ngực ông, mặc chiếc tạp dề màu trắng. Buổi sáng, ông đậu xe trước cổng trường.
- Xem thêm: Quà quê
Buổi trưa và chiều, ông đẩy xe ngoài đường phố hay các con hẻm. Trưa nào khi ngủ thức dậy, tôi thường lắng tai nghe âm thanh quen thuộc “cách… cách” từ chiếc kéo, ông có thói quen không hề rao, thỉnh thoảng ông cầm chiếc kéo sắc lớn nhấp nhấp vài cái. Không những riêng lũ trẻ con chúng tôi mà người lớn cũng thích món ăn này. Qua lớp kiếng trong suốt của thùng xe, bên dưới phía trong là những cọng đu đủ mỏ vịt màu xanh lẫn hơi vàng hồng, một khay nhôm đựng khô bò, khay đựng gan bò khô, phía trên thành xe là một chai thủy tinh chứa chất nước màu trắng, đó là giấm chua ngọt, một chai khác chứa chất nước màu đỏ là giấm pha ớt xay nhuyễn.
Tay ông cầm chiếc kẹp sắt, gắp những cọng đu đủ cho vào chiếc dĩa nhỏ bằng nhôm, rồi cầm chiếc kéo nhấp lia lịa từng miếng khô bò hay gan, cầm chai xịt lên gỏi những giọt giấm trắng, giấm đỏ, vài miếng rau răm xắt nhỏ, chút đậu phộng rang được đâm không nhỏ không to. Tha hồ thưởng thức độ giòn của cọng đu đủ bào, ngọt cay của khô bò, gan bò khô hòa quyện vị ngọt, chua cay của hai thứ nước giấm. Vừa ăn vừa chảy nước mắt, miệng hít hà mới đúng là thú ăn gỏi đu đủ. Ông có bí quyết làm nước giấm mà những người bán khác không thể nào chế biến có độ vừa ăn như giấm của ông.
Đặc biệt là hai món khô bò và gan, nó không khô khốc mà hơi ươn ướt, deo dẻo, mềm, thơm cay rất ngon. Nếu ăn ở cổng trường thì tuyệt hơn, vì khi ăn gỏi xong, bước sang chiếc xe của dì Sáu kế bên. Dì bán chuyên một thứ nước chứa trong bình bằng I-nox chiếc vòi là hình một chiếc máy bay phản lực. Khi đứa nào kêu, dì cầm ly kê phía dưới miệng vòi, ấn nút tức thì chất nước màu xanh chảy vào ly, đưa cho từng đứa đứng chờ. Vừa ăn khô bò xong, chất cay còn tạm trú trên mặt lưỡi, hớp vô một miếng nước bạc hà, ngọt lạnh như chiếc lưới chụp xuống bắt cá, những vị cay của ớt sợ bỏ chạy mất dép, thật sảng khoái.
- Xem thêm: Dừa nước gợi nhớ hồn quê
Bây giờ, thỉnh thoảng tôi gặp một vài người còn bán món bò bía mặn, gỏi đu đủ, khô bò, sực nhớ về kỷ niệm của một thời. Tôi ăn thử, cảm giác không ngon như gỏi đu đủ khô bò ngày xưa của chú Tệt. Riêng món kẹo bông gòn, nước đá nhận và món bò bía ngọt hình như cũng không ngon bằng. Phải chăng những người bán ấy đã qua đời mà không truyền nghề lại cho con cháu hoặc vị giác của tôi đã không còn như xưa, hoặc… vị ngon ấy chỉ còn trong ký ức. Có lẽ, tôi đã già, ngồi lục tìm trong vùng ký ức rồi nhớ, thèm vu vơ chứ thật ra vẫn là bò bía mặn, ngọt, vẫn là gỏi đu đủ khô bò, kẹo bông gòn… của ngày xửa ngày xưa.