Mặc dù tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống giảm về tổng thể nhưng xét cục bộ tại một số ngân hàng, con số này lại có xu hướng tăng lên.
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), năm 2018 toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 149.200 tỉ đồng nợ xấu. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng là 1,89%, giảm so với mức 2,46% cuối năm 2016 và mức 1,99% cuối năm 2017. Đây là mức thấp nhất kể từ năm 2012 đến nay và đã về dưới ngưỡng 2% – ngưỡng mục tiêu trong Nghị quyết số 01 vừa ban hành hồi đầu năm nay.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống giảm về tổng thể nhưng xét cục bộ tại một số ngân hàng, con số này lại có xu hướng tăng lên. Nguyên nhân khiến nợ xấu của một số nhà băng tăng vào cuối năm qua là do các khoản nợ bán cho VAMC đến hạn quay trở về. Với diễn biến này, nhiều ngân hàng đang nỗ lực làm “sạch” bảng cân đối kế toán bằng cách tăng dự phòng rủi ro.
Điển hình như Sacombank, ngân hàng này đã coi việc bán tài sản đảm bảo thu hồi nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm. Thời gian qua, Sacombank đã mạnh tay tăng chi phí dự phòng rủi ro thêm gần hai lần, lên mức 1.592 tỉ đồng. Tổng số nợ xấu nội bảng của Sacombank tính đến cuối năm 2018 đã giảm gần một nửa so với hồi đầu năm, xuống còn 5.427 tỉ đồng. Tỷ lệ nợ xấu theo đó giảm mạnh từ 4,67% xuống còn 2,11%. Mặc dù vậy, so với các ngân hàng khác trong hệ thống, nợ xấu của Sacombank vẫn được đánh giá ở mức khá cao. Áp lực từ nợ xấu buộc Sacombank phải tăng mức trích lập dự phòng rủi ro.
Theo đó, dự phòng trái phiếu VAMC của Sacombank tính đến cuối năm 2018 đạt 2.570 tỉ đồng, tăng 54% so với ngày 30-6-2017. Dự phòng rủi ro cho vay khách hàng đạt 3.523 tỉ đồng, tăng 45% so với ngày 30-6-2017. Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở OCB. Tỷ lệ nợ xấu của OCB đã tăng từ mức 1,79% lên mức 2,28%, trong đó có một phần nợ xấu do ngân hàng đã mua lại từ VAMC sau thời gian bán năm năm nhưng chưa xử lý được. Điều này khiến OCB phải tăng chi phí dự phòng rủi ro hơn 10 lần so với cùng kỳ, lên mức 397 tỉ đồng trong quý IV-2018. Lũy kế cả năm 2018, chi phí dự phòng rủi ro của OCB tăng 3,7 lần, lên mức 945 tỉ đồng.
Trong khi đó, ở chiều ngược lại, Vietcombank và ACB tiếp tục đứng đầu hệ thống xét về năng lực xử lý nợ xấu, với tỷ lệ trích lập dự phòng lên tới 150 – 160% so với số nợ xấu. Với mức trích lập này, trong trường hợp xấu nhất là 100% nợ xấu không thu hồi được, hai ngân hàng này vẫn còn lại phần 50 – 60% để hoàn nhập dự phòng. MB, TPBank và Vietinbank cũng là những cái tên xếp hạng cao về năng lực xử lý nợ xấu khi mức bao phủ nợ xấu của những ngân hàng này đang quanh mức 100%, đồng nghĩa với số dự phòng đã trích vừa bằng mức tổn thất nếu toàn bộ nợ xấu không thể thu hồi. Techcombank, BIDV, HDBank thể hiện khả năng xử lý nợ xấu thấp hơn một chút với tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu dao động trong khoảng 70 – 90%.
Việc tăng trích lập dự phòng rủi ro đã có tác động rất lớn tới kết quả lợi nhuận của các ngân hàng. Nhiều nhà băng đã phải dùng đến hơn một nửa lợi nhuận cho chi phí dự phòng rủi ro trong năm qua. Chẳng hạn, BIDV là ngân hàng có lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cao nhất trong năm 2018, đạt tới hơn 28.300 tỉ đồng, cao hơn cả Vietcombank (25.679 tỉ đồng).
Tuy nhiên, do BIDV phải trích chi phí dự phòng rủi ro lớn nhất trong hệ thống, lên tới hơn 18.800 tỉ đồng nên đã “ngốn” đến 2/3 lợi nhuận thu về. Theo đó, lợi nhuận trước thuế sau dự phòng của BIDV chỉ còn hơn 9.400 tỉ đồng, thấp hơn nhiều so với Vietcombank (18.300 tỉ đồng), khi Vietcombank chỉ phải trích hơn 7.300 tỉ đồng cho chi phí dự phòng.
Theo NHNN, mục tiêu của ngành ngân hàng năm 2019 là đẩy mạnh xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường, kiểm soát nợ xấu mới phát sinh và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu, phấn đấu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống dưới 2%; tỷ lệ nợ xấu và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu dưới 5%; tăng cường công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), hỗ trợ công tác cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu…
Đây là hướng mới của ngành trong việc ngăn chặn xử lý nợ xấu trong giai đoạn tiếp theo 2019-2020. Tính đến nay, việc thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu đến nay đã đi được hơn 1/3 chặng đường. Kết quả đạt được là khá rõ nét, nhưng thực tế vẫn còn một số vướng mắc cần được tháo gỡ để Nghị quyết phát huy hiệu quả cao hơn; qua đó đảm bảo đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu.