Cày, bừa, dụng cụ đánh bắt cá… được sưu tầm, trưng bày như tái hiện lại cuộc sống, sinh hoạt của đồng bào Khmer xưa tại vùng Bảy Núi. Người có công đầu trong sưu tầm, gìn giữ các hiện vật này là Hòa thượng Chau Sơn Hy, Trụ trì chùa Sà Lôn, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
“Tôi muốn lưu giữ nét đẹp văn hóa nông nghiệp và tư liệu sản xuất xưa để lớp trẻ biết được quá trình ông cha làm ra hạt gạo cực khổ như thế nào. Từ đó, giúp các cháu sống có trách nhiệm với chính mình, người thân và xã hội” – Hòa thượng Chau Sơn Hy chia sẻ.
Bộ sưu tập độc đáo
Phòng trưng bày nông cụ rộng khoảng 200m2 nằm trong khuôn viên chùa Sà Lôn gồm nhiều hiện vật được Hòa thượng Chau Sơn Hy bố trí khá hài hòa. Khi có khách đến tham quan, ông tỉ mẩn thuyết trình công dụng cùng với những nét độc đáo của vật dụng trong đời sống đồng bào Khmer.
Có rất nhiều vật dụng được ông cất công sưu tầm, phục chế để trưng bày khiến căn phòng như một “bảo tàng” thu nhỏ nhưng ông chỉ khiêm tốn gọi đó là “bộ sưu tập”. “Đây là giỏ đựng cá khi đi tát đìa, tiếng Khmer gọi là Chêl-đak-rây. Cái này cũng là giỏ đựng cá nhưng là loại có nắp đậy, tiếng Khmer gọi là Trun. Còn đây là Sniên (cào cá bằng tay), Kay Đom Bal (khung dệt vải, lụa)…”- Hòa thượng Chau Sơn Hy giải thích.
Có tham quan “bảo tàng” này mới thấy tất cả các vật dụng xưa đều được chế tác bằng gỗ với kỹ thuật rất công phu. Thậm chí ngay với dụng cụ đơn giản nhất là chiếc “cào” dùng để trở (trộn) lúa khi phơi, cũng được đục nẩy nền hình tượng “lưỡng long tranh châu”.
- Xem thêm: Tìm vẻ đẹp vùng Bảy Núi ở Tri Tôn
Đặc biệt, bộ sưu tập “nông cụ toàn tập” được ông cất công sưu tầm với các vật dụng từ khâu làm đất trên đồng đến thu hoạch và chế biến trong nhà. Trong đó có bộ nông cụ làm việc trên đồng, chủ yếu dành cho nam giới như cày, bừa, dụng cụ dùng để cắt lúa, cây “đập” lúa; bộ sưu tập dụng cụ chủ yếu dành cho nữ giới cũng rất đa dạng từ cối xay lúa bằng cần đẩy tay, cối giã lúa trực tiếp bằng chày tay cho đến cối giã cốm dẹp – món ăn đặc sản của đồng bào Khmer, rồi sàng lúa, gạo…
Nhưng có lẽ ấn tượng nhất với khách tham quan là khi được nghe Hòa thượng Chau Sơn Hy giới thiệu về phương tiện “xe bò đua” trong bộ sưu tập phương tiện giao thông – vận tải trong phum sóc ngày xưa.
“Có hình thức na ná xe bò thông dụng, nhưng xe bò cổ có phần thùng nhỏ, gọn được thiết kế theo dáng nửa hình tròn đủ 3 người ngồi. Đây cũng được xem là “tổ” của môn đua bò nổi tiếng của đồng bào Khmer Bảy Núi ngày nay”- Hòa thượng Chau Sơn Hy nói.
Theo Hòa thượng Chau Sơn Hy, chiếc xe này được chế tác vào năm 1894, tính đến nay tròn 126 năm, do ông vận động ông Tà Hiêm ở sóc Sà Lôn tặng lại cho chùa.
“Tôi nghe chủ nhân chiếc xe này kể lại là ông ngoại của ông ấy sử dụng, sau đó để lại cho mẹ ông rồi mới tới lượt ông sử dụng. Xe này ngày xưa chỉ có những người giàu mới đi được, giống như xe 4 chỗ tiền tỉ bây giờ”- Hòa thượng Chau Sơn Hy nói.
Ông cũng cho biết thêm: “Do loại hình đua bò kéo xe chỉ thực hiện trên đường bộ nên mức độ nguy hiểm cao, vì vậy sau đó phải nhường chỗ cho loại hình đua bò kéo bừa trên mặt ruộng có nước ngập xăm xắp, tính nghệ thuật và độ an toàn cao hơn. Vì thế ngày nay, nhiều thanh niên Khmer chỉ biết được xe bò đua xưa qua lời kể của ông, bà hay thông tin ngắn gọn trên các phương tiện truyền thông”.
Gìn giữ cho đời sau
Hòa thượng Chau Sơn Hy cho biết trước đây ông thường có thói quen tìm và lưu giữ những nông cụ xưa của đồng bào Khmer để làm kỷ niệm. Dần dần, thấy nhiều bộ nông cụ của Phật tử bị hư hỏng do không được bảo quản tốt nên ông đứng ra vận động: “Ai có nông cụ hồi xưa thì cho sư xin để đem về chùa trưng bày, bảo quản tốt hơn cho con cháu sau này biết”.
Hưởng ứng lời vận động của ông, từ năm 2006, nhiều bà con trong vùng và các nghệ nhân tích cực tìm đến ủng hộ chùa Sà Lôn. Người góp công, người góp của để bộ sưu tập hiện vật ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, việc đưa các hiện vật này về chùa cũng khá vất vả.
“Nhiều lúc phải đôi ba lượt đi – về mới rước được hiện vật”, giọng chân tình của ông khiến nhiều người nhận ra đằng sau những “báu vật” nông cụ này là cả tấm lòng và tầm nhìn của ông khi kiên trì sưu tầm suốt nhiều năm qua.
Khi số hiện vật quý giá lên đến hơn 100 món, Hòa thượng Chau Sơn Hy quyết định xây dựng “bảo tàng” để lưu giữ và trưng bày. “Tôi muốn lưu giữ nét đẹp văn hóa nông nghiệp và tư liệu sản xuất xưa để lớp trẻ nhận biết quá trình ông cha làm ra hạt gạo cực khổ như thế nào. Từ khâu cày, bừa, cấy, rồi tới thu hoạch, cắt, đập bằng tay, đem vô sấy bằng sức, giã gạo cũng bằng sức… Qua đó, giúp lớp trẻ sống có trách nhiệm với chính mình, với người thân và xã hội” – Hòa thượng Chau Sơn Hy chia sẻ.
Cũng theo Hòa thượng Chau Sơn Hy, nhờ sự chung tay của địa phương và các trường dân tộc nội trú trên địa bàn mà các học sinh được tạo điều kiện đến tham quan. Tại đây, các em được tận mắt thấy, được nghe thuyết minh về những dụng cụ xưa của ông cha. Anh Trọng Nhơn, 28 tuổi, ngụ TP. Cần Thơ, cho biết: “Khi đi tham quan ngôi chùa này, tôi vô cùng bất ngờ trước bảo tàng nông cụ thời xưa. Tôi ấn tượng nhất là những cỗ xe bò với họa tiết, chạm khắc thật tinh xảo và đẹp mắt”.
Đến “bảo tàng”, khách tham quan không chỉ thích thú với các hiện vật mà còn bị “mê hoặc” bởi những kiến thức chuyên sâu chẳng khác gì nhà nghiên cứu của Hòa thượng Chau Sơn Hy. Nhưng hơn hết ở ông chính là tấm lòng, sự say mê sưu tầm để hướng những hiện vật này sống mãi theo thời gian. “Sắp tới, tôi sẽ lập hồ sơ để tạo sức sống mới cho từng món đồ trong bộ sưu tập”- ông nói.
Từ thực tế cho thấy cách làm “bảo tàng” nông cụ Khmer của Hòa thượng Chau Sơn Hy gợi nhiều điều về bài học sống có ích. Trong đó, ở chính bản thân ông, là bài học sống tốt đời – đẹp đạo. Đặc biệt, trong ý tưởng lập hồ sơ cho những “báu vật” của mình, ông hướng việc sưu tầm tới tác động theo chiều sâu văn hóa, vượt khỏi giới hạn “nhốt hiện vật” thường thấy. Việc ghi chép nguồn gốc, lịch sử, chú thích cách chế tác, cách sử dụng từng món đồ sẽ tạo ra sợi dây vô hình kết nối đồ vật tới người thưởng thức.