Ngày 30-9, Tổng Hội xây dựng Việt Nam, Viện Nghiên cứu kinh tế xây dựng và đô thị, Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng, Tạp chí Người Đô Thị tổ chức Tọa đàm “Tổng quan hiện trạng đô thị biển Việt Nam và một số quan điểm về kiểm soát phát triển”.
Tham dự buổi tọa đàm có ông Trần Ngọc Hùng – Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, TS Nguyễn Hồng Hạnh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế xây dựng và đô thị, KTS Phạm Thị Nhâm – Phó Viện trưởng Viện quy hoạch Đô thị và nông thôn Quốc gia (Bộ Xây dựng), PGS.TS Phạm Trung Lương – Nguyên Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển du lịch, Thạc sĩ KTS Trịnh Minh Hiếu – Vụ quản lý Quy hoạch (Bộ Kế hoạch và đầu tư), ông Trần Trung Chính – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Đô thị và phát triển hạ tầng, cùng nhiều chuyên gia khách mời đến từ các viện, trung tâm nghiên cứu hữu quan khác…
Tiềm năng chưa được “đánh thức”
Phát biểu khai mạc, ông Trần Ngọc Hùng – Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam, nêu ra những lợi thế của Việt Nam về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên nguyên biển. Theo ông Hùng thì Việt Nam là một quốc gia biển, có nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên với hơn 3.260km bờ biển, đặc biệt là nhiều bãi biển đẹp như Trà Cổ, Sầm Sơn, Lăng Cô, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc….
“Thời gian qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế to lớn trong các lĩnh vực du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác tài nguyên biển, nuôi trồng, khai thác hải sản, công nghiệp ven biển. Tuy nhiên sự phát triển đó đang bộc lộ các nhược điểm lớn khi nhìn nhận chúng từ các quan điểm phát triển đô thị, chưa biến những lợi thế này trở thành cơ hội để phát triển kinh tế biển và đô thị biển”, Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam nhận định.
Phát biểu tại buổi tọa đàm, TS Nguyễn Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế xây dựng và đô thị, cho biết mặc dù đã có chủ trương phát triển kinh tế biển của Đảng và Chính phủ nhưng các cơ quan chức năng của Trung ương và địa phương vẫn đang lúng túng trong triển khai. Các đô thị ven biển hiện đang được nhìn nhận như các đô thị đồng bằng, đô thị núi, không rõ tư duy phát triển với các ngành kinh tế hướng biển là động lực phát triển đô thị.
Cũng theo bà Hạnh thì vai trò của các khu kinh tế, khu công nghiệp và cảng biển chưa thấy rõ là động lực cho phát triển đô thị biển. Chưa hình thành được các trung tâm kinh tế – tài chính lớn để tạo sức hút, làm nền tảng hạ tầng để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các ngành kinh tế biển, du lịch, dịch vụ,… và hệ thống cảng biển trong các đô thị biển.
Trong khi đó, khẳng định phát triển du lịch biển với vai trò hạt nhân là các đô thị du lịch biển có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước, PGS.TS. Phạm Trung Lương, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ tài nguyên và môi trường biển Việt Nam, còn cho biết chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định 46 điểm đến có tiềm năng phát triển thành khu du lịch quốc gia, trong số đó đã có tới 23 điểm đến là thuộc dải ven biển.
Theo ông Lương mặc dù cho đến nay, nhiều tiềm năng đặc sắc của du lịch biển chưa được đầu tư khai thác một cách tương xứng, tuy nhiên đến năm 2019, ở dải ven biển tập trung tới 70% các khu, điểm du lịch trong cả nước; hàng năm thu hút khoảng 48-65% lượng khách du lịch cả nước, thu nhập từ hoạt động du lịch biển năm 2019 đạt trên 43.200 tỷ, bằng 60% tổng thu nhập du lịch Việt Nam. Trong tổng số 41 đô thị có biển hiện nay ở Việt Nam, không phải đô thị nào cũng là đô thị du lịch biển.
Cũng theo Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ tài nguyên và môi trường biển Việt Nam thì mặc dù đến nay “đô thị du lịch biển” chưa được “chính danh” trong hệ thống đô thị Việt Nam bằng những quy định của Luật Quy hoạch đô thị nhưng vai trò của loại hình đô thị này là không thể phủ nhận đối với phát triển kinh tế xã hội vùng ven biển và hải đảo cũng như phát triển du lịch Việt Nam.
Ở góc nhìn khác, ông Trần Trung Chính, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng, cho rằng các cụm cảng, khu công nghiệp đang nhanh chóng hình thành và quy mô các loại cảng, cụm cảng của Việt Nam hiện nay có thể được xem như một “biểu tượng vật chất” của về sự thành đạt trong lĩnh vực giao thông hàng hải. Nhưng sự xuất hiện nhanh, dày đặc chuỗi cụm cảng biển với ý nghĩa như các “cửa ngõ” của một quốc gia, lại chưa trở thành động lực cho một tầm vóc phát triển rộng hơn, căn bản hơn, để hình thành hệ thống “đô thị cảng – công nghiệp”. Lẽ ra các chuỗi cảng hàng hải đó phải đóng vai trò “tạo thị”, tức là hạt nhân cho quá trình tích tụ dân số đủ lớn để trở thành những đô thị đúng nghĩa.
Nguyên nhân của tình trạng này theo ông Chính là do bất cập “từ tư duy đô thị”, phần lớn các bến cảng trải dài, phân lô với nhiều nhà đầu tư tham gia. Không gian chức năng gồm trụ sở, cơ sở dịch vụ đón nhận hàng, kho bãi và các công trình phụ trợ, logistics và hoạt động với chức năng duy nhất là cảng, thiếu những thành tố để tích tụ dân số.
Giải pháp nào để phát triển đô thị biển?
Theo bà Hạnh, để có thể phát huy thế mạnh của một quốc gia biển, Việt Nam cần có những chiến lược riêng cho các đô thị biển về kinh tế, xã hội và quy hoạch xây dựng. Cần phải xây dựng một chiến lược phát triển đô thị biển gắn kết chặt chẽ với “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2054” đã được Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành tại Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 22.10.2018.
Ths-KTS Phạm Thị Nhâm, Phó Viện trưởng Viện quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia, cho rằng xu hướng phát triển đô thị trong tương lai lựa chọn khu vực giáp biển, xây dựng các trung tâm đô thị mới gắn với hệ thống cảng biển và nền kinh tế hàng hải. Như vậy, đột phá mới trong tư duy phát triển kinh tế biển là tranh thủ cơ hội của thời đại bùng nổ phát triển của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Và việc liên kết chuỗi đô thị biển đảo thành hệ thống đô thị biển sẽ giúp việc hợp tác và chia sẻ chức năng cảng – dịch vụ – công nghiệp – du lịch, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngoài ra, theo bà Nhâm thì cần tập trung phát triển hai vùng đô thị hoá ven biển trọng điểm quốc gia là vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng đạt tầm vóc khu vực và quốc tế, cạnh tranh với các vùng đô thị lớn khu vực biển châu Á – Thái Bình Dương. Trong đó các đô thị có tiềm năng về cảng nước sâu quy mô lớn như Hải Phòng, TP.HCM, Vũng Tàu cần được đổi mới mô hình đô thị thúc đẩy nền kinh tế hàng hải, lĩnh dịch vụ – công nghiệp cảng, hình thành đầu mối giao thương quốc tế gắn với cảng nước sâu hoặc sân bay quốc tế ven biển.
Về phần mình, ông Lương cho rằng để đẩy mạnh phát triển đô thị du lịch biển theo hướng bền vững cần sớm nghiên cứu điều chỉnh Luật theo hướng công nhận tính chuyên ngành (đô thị công nghiệp, đô thị du lịch…), tính chuyên biệt (đô thị xanh, đô thị thông minh…) của đô thị và các danh hiệu đô thị (đô thị đáng sống, đô thị hạnh phúc, đô thị hòa bình…) trong hệ thống đô thị với các tiêu chí hoặc tiêu chuẩn cụ thể. “Bên cạnh đó cần tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch các đô thị du lịch biển hiện có, theo hướng khu trung tâm đô thị hiện có cần ưu tiên gắn với hệ thống tiện ích và các công trình dịch vụ du lịch. Trong điều kiện cho phép, cần quy hoạch khu vực dịch vụ, mua sắm, vui chơi giải trí riêng biệt, ít ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân”, ông Lương gợi ý.