Văn hóa ấy, dù chùa đã biến đi cả rồi, vẫn còn nguyên màu hồng tam thế Phật trong quần chúng. Cả thành phố Vinh nô nức tham dự Tuần Văn hóa, già chen chân với trẻ. Này, hội trường mênh mông không đủ chỗ ngồi, dù để nghe thuyết trình, dù để xem văn nghệ, chiếu phim. Này, đêm hoa đăng thả đèn với hàng chục ngàn người. Này, hội bông hồng cài áo với cả vạn già trẻ phăng phăng leo núi Đại Tuệ. Này, quán cơm chay với lũ lượt khách ăn nối đuôi, hết nhẵn thức ăn vẫn vui vẻ xin xì dầu với bún. Đông như hội, vậy mà ở đâu cũng trật tự, nhã nhặn, lịch sự. Nơi nào khác văn hóa suy đồi, nơi đây, trong tuần này, văn hóa dậy sống. Nơi nào khác giáo dục trốn đi, nơi đây giáo dục trở về. Tự xã hội đấy, tự quần chúng làm văn hóa, tự quần chúng làm giáo dục. Tự xã hội trang sức vẽ đẹp: áo lam nơi hàng trăm tuổi trẻ tình nguyện, phong cách nơi chủ nhân các chiếc xe sang lo việc chở khách, im lặng nơi hội trường, hân hoan trong tiếng vỗ tay. Quần chúng là sức mạnh vô địch, dời được cả núi, và sức mạnh ở đây là sức mạnh của hòa bình, xây dựng, dựng lại được cả núi non. Năm trăm ngôi chùa mà tôi tưởng đã biến đi bỗng như thấp thoáng linh hồn trên vùng đất đã mở ra văn hóa, may mắn thay, một văn hóa kiên cường, bất khuất, nhưng khoan hòa, dung thứ, nhân nghĩa, từ bi. Văn hóa ấy có mất đâu dù cho chùa Diệc không còn nữa.
Viên gạch Tam Thế Phật
Trước khi đến Nghệ An, tôi đã đọc sơ qua lịch sử chùa Diệc. Chùa được khởi xây từ cuối đời Trần, được trùng tu nhiều lần, từng là cảnh quan lớn của cả đất nước, niềm tự hào của dân chúng xứ Nghệ. Bây giờ, tuy tượng đã gãy tay, thủng mắt, bia đá lăn lóc, tam quan trơ trọi trong đổ nát, nhà cửa lấn chiếm đến tận vườn, chùa vẫn còn treo biển xếp hạng di tích lịch sử. Chùa có tan hoang đi nữa, tương truyền về chùa vẫn cứ sống trên miệng người dân. Dân kể: Ngày xưa, nơi đây là một khu đất trống, toàn ao chuôm. Năm ấy, trời làm hạn hán kéo dài, ao chuôm khô sạch, dân không có nước tưới. Một hôm, người ta thấy đàn diệc từ đâu bay về đây, nằm chết la liệt. Mọi người kéo ra xem thì trời đổ mưa to. Dân bảo nhau: những con diệc này do trời phái xuống để giúp dân làm mưa. Họ bèn nhặt xác chim, đắp thành một gò nhỏ. Ban đêm, dân lại thấy hàng trăm con diệc bay lên trời. Từ đó, dân chúng dựng lên nơi đây một ngôi chùa bằng tranh và đặt tên là chùa Diệc.
Đẹp thế, dân dựng chùa, dân đặt tên. Như đặt tên con. Chùa là con đẻ của dân. Như nước vậy. Dân thương chùa như thương con đẻ, tôi biết chứ, nhưng tôi phải chạm mặt cụ thể với lòng thương ấy mới xúc động đến tận tim gan. Tôi đã xúc động như vậy, chảy nước mắt với hội trường, khi nghe một bà cụ già phát biểu, giọng run run như tắt tiếng: “Cả đời tôi – cụ nói – cả đời tôi chật vật nuôi con, nhưng đã cố dành dụm được một lượng vàng để góp phần xây lại chùa Diệc. Tôi không biết có còn sống để thấy lại chùa Diệc ngày xưa không, nhưng tôi căn dặn con cái, dù đói cũng không được lấy vàng mà tiêu, dù tôi có chết cũng không được lấy vàng làm tang ma, cứ giữ lượng vàng đấy đợi đến khi xây lại chùa Diệc”.
Trong một chuyện tiền thân của Phật mà tôi chỉ còn nhớ mang máng đoạn đầu, có con chim nằm trong tổ với đàn con sơ sinh, bỗng khu rừng bốc cháy. Chim mẹ làm gì để cứu con? Nó bay xuống hồ nước bên cạnh, ngậm một giọt nước, tưới xuống lửa, rồi lại bay, rồi lại ngậm nước, rồi lại tưới cho đến khi kiệt sức. Nếu tôi phải viết lại đoạn cuối của chuyện, và nếu tôi lên mặt làm nhà thuần túy duy lý, tôi sẽ kể rằng, may quá, lính chữa lửa đã đến kịp để cứu khu rừng và cứu bầy chim. Nếu tôi cũng cứ muốn duy lý nhưng một nửa duy lý, một nửa tình cờ để câu chuyện hấp dẫn hơn, tôi văn chương thêm một chút: lửa từ xa lan đến khu rừng, nhưng lúc hỏa hoạn bắt đầu xảy ra thì trời đã bắt đầu vần vũ mây đen và mưa đã kịp đổ xuống khi lửa mấp mé bầy chim trong tổ.
Nhưng việc gì tôi phải duy lý? Việc gì tôi phải khoa học? Việc gì tôi không thấy cái hùng vĩ nơi giọt nước của con chim, việc gì tôi cho tính thiện đầu hàng tính ác, việc gì tôi không thấy thần đất, thần trời, thần sông, thần núi, thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp, thần nào cũng xúc động như bất cứ ai đang thấy con chim, việc gì tôi không kể chuyện cho bé thơ như mẹ tôi đã kể cho tôi, việc gì tôi cho chuyện thần tiên bay hết về trời, để lại chiếc nôi trống trơn tưởng tượng? Việc gì tôi không tưởng tượng chùa Diệc mọc lên trên lượng vàng của bà cụ già một buổi sáng khi dân chúng vừa thức dậy? Việc gì tôi không kể một chuyện thần tiên của thế kỷ thứ VII trong đó tất cả vàng bạc của thế gian bỗng biến thành đồng cả, chỉ riêng một giọt vàng của một bà cụ già đã chảy ra để trang hoàng bằng vàng một hộp đựng báu vật mà một con chim nhạn đã bay về báo cho biết đó là xá lợi của Phật?
Lượng vàng ấy chẳng phải là một chuyện thần tiên? Chẳng làm động lòng thần sông, thần núi của vùng đất địa linh nhân kiệt?
Ảnh Cao Huy Hóa
Cao Huy Thuần