Hằng năm, một số lượng không nhỏ sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng có hiện tượng chán nản, hoang mang, thậm chí muốn tự tử? Có lẽ, đã đến lúc cả cha mẹ và nhà trường cần quan tâm hơn đến vấn đề tâm lý của sinh viên, dù các em đã bước vào tuổi trưởng thành, không “bỏ lơ” để các em tự vượt qua những khó khăn, khủng hoảng của mình.
Những con số đáng buồn
Tháng 6-2016, Trường Đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh cùng lúc đã có quyết định buộc thôi học 946 sinh viên. Trong số này có nhiều em học hệ chính quy, hệ liên thông và cao đẳng đã học từ ba học kỳ trở lên. Đáng chú ý, trước khi xảy ra việc đuổi học hàng loạt này, trường đã cảnh báo học vụ với gần 2.000 sinh viên, trong đó, không ít em đã bị cảnh báo lần hai. Trước đó, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh đã cảnh báo học vụ và buộc thôi học 214 sinh viên với các lý do không hoàn thành nghĩa vụ học phí, không đạt số tín chỉ tối thiểu cho ngành đào tạo trong một học kỳ, có điểm trung bình kiểm tra trong học kỳ đầu dưới 3.0 hoặc điểm trung bình của hai học kỳ liên tiếp dưới 4.0. Con số này ở Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh còn lớn hơn rất nhiều, khi có tới khoảng 30% số sinh viên không thể cố gắng ở lại trường đến năm học cuối. Tại Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, thông tin từ ông Nguyễn Minh Hà, Trưởng phòng đào tạo, tính chung các ngành học thì số sinh viên bị “rơi rụng” khá nhiều, trong đó nhóm ngành kỹ thuật có sinh viên bị bỏ học nhiều hơn các ngành kinh tế. Tỷ lệ ra trường sau khi hết hạn (bảy năm) chỉ còn 70 – 72% số sinh viên nhập học. Trong đó, ngành kỹ thuật có hơn 60%, còn ngành kinh tế và các ngành khác khoảng 75%. Như vậy, khoảng 20 – 25% sinh viên của một khóa đã bị rơi rụng. Số sinh viên ra trường đúng hạn (bốn năm) chỉ được 50%. Tại trường Đại học Giao thông Vận tải, cứ mỗi năm học lại có hàng ngàn sinh viên của trường bị cảnh báo lần 1 và lần 2, do kết quả học tập không đạt, và khoảng 600 sinh viên bị buộc thôi học.
Nhiều thủ khoa đầu vào, sinh viên trong diện tuyển thẳng nhờ đoạt giải học sinh giỏi quốc gia ở phổ thông, nhưng khi vào đại học lại có kết quả học tập không cao. Một số sinh viên trong diện này tụt dần và rơi vào “vòng nguy hiểm”, thậm chí có trường hợp sinh viên vốn đạt thành tích xuất sắc ở phổ thông nhưng nằm trong danh sách bị đuổi học! Ông Nguyễn Thanh Chương, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông Vận tải cho biết: “Trong những sinh viên không đạt điều kiện học tập đã đến mức phải buộc thôi học, trường vẫn cố gắng xem xét những trường hợp có một chút tiến bộ so với lần cảnh báo 2, cho các em thêm thời gian để cố gắng. Nhưng đáng tiếc là 80% trong số được gia hạn này không thể vượt qua khó khăn của bản thân. Cuối cùng, chúng tôi buộc phải cho các em thôi học”.
Bệnh “trầm cảm” đáng lưu tâm
Một nghiên cứu mới nhất dựa trên các thang đo sức khỏe tâm thần chuẩn đối với trên 2.000 sinh viên Y khoa ở tám trường Đại học Y Dược trên toàn quốc đã đưa ra một kết luận quan trọng về dấu hiệu trầm cảm và ý nghĩ tự tử gia tăng ở khối sinh viên này. “Mặc dù hơn một nửa trong số 2.099 sinh viên được hỏi cho biết họ có chất lượng cuộc sống tốt, nhưng trong năm sinh viên thì có từ hai đến ba người có những dấu hiệu trầm cảm và khoảng 1/10 sinh viên đã có ý nghĩ tự tử trong năm qua. Đặc biệt, có khoảng 1/20 sinh viên có cả hai dấu hiệu trầm cảm lẫn muốn tự tử, GS Michael P. Dunne, thành viên nhóm nghiên cứu trên cho biết.
Thực tế, trầm cảm không chỉ xuất hiện ở sinh viên ngành y khoa. Một nghiên cứu vào năm 2011 ước tính là có khoảng 12 triệu người Việt Nam cần đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần và tâm lý, trong số này sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng là không ít. Nhiều năm công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần cho giới trẻ, Thạc sĩ khoa học xã hội sức khỏe Lê Thị Minh Tâm cho biết: “Tôi đã từng tiếp xúc với nhiều sinh viên mà bản thân các em không biết mình cần được chăm sóc về sức khỏe tâm thần để đạt được sự thoải mái và cân bằng về mặt tinh thần, từ đó có thể cân bằng, hưởng thụ cuộc sống, trở nên sáng tạo, ham học hỏi, khám phá những điều mới đồng thời có khả năng ứng phó tốt hơn với những khó khăn trong cuộc sống và công việc. Thực tế, không chỉ sinh viên mà ngay cả những người trưởng thành trong chúng ta khi bị bệnh về tâm thần cũng không muốn đi gặp bác sĩ và chuyên viên tâm lý vì mặc cảm, sợ sự kỳ thị của xã hội, có những trường hợp còn không biết giải quyết vấn đề của mình như thế nào”.
Bà Lê Thị Minh Tâm cho rằng việc chăm sóc sức khỏe tinh thần cần thiết ở mọi lứa tuổi, nhưng đặc biệt là ở giai đoạn khủng hoảng tuổi trưởng thành. Thực tế đối với các bạn trẻ, bước chân vào ngưỡng cửa đại học cũng giống như bắt đầu một cuộc sống mới nhiều thử thách. Chúng ta hay nghĩ rằng các em cảm thấy áp lực là do cha mẹ, nhưng đây chỉ là một phần, nhiều lúc áp lực đó là từ chính bản thân các em cùng các yếu tố sinh học bên trong cơ thể mỗi đứa trẻ. Phần lớn những trường hợp học sinh chán nản, tự tử, đều liên quan đến yếu tố tâm lý, tinh thần trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng hình ảnh bản thân. Trong giai đoạn trưởng thành, các em thường tìm kiểu mẫu để xây dựng hình ảnh bản thân. Nếu các em không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, không nghĩ mình có thể làm nên trò trống gì, cũng không thể tìm thấy kiểu mẫu để trở thành thì các em rất dễ rơi vào khủng hoảng.
Hiện nay, cha mẹ thường chỉ chú ý đến sức khỏe thể chất của con, trong khi sức khỏe tinh thần không kém phần quan trọng. Vì sức khỏe tâm trí thể hiện qua tinh thần, chỉ khi các em đảm bảo sức khỏe tinh thần thì mới có sự thoải mái, bình yên trong thể chất và tâm hồn. Tinh thần bất ổn có thể dẫn đến bất an và dẫn đến các rối loạn tinh thần khác, dẫn đến việc không thể tập trung cho việc học được.
Vì vậy, vai trò của cha mẹ rất quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe tinh thần cho con cái. Các em sinh viên rất cần một sự chuẩn bị không chỉ về tâm lý mà còn về các kỹ năng để các em bước vào ngưỡng cửa đại học vững vàng hơn. Trong các kỹ năng sống cần thiết thì quan trọng nhất là kỹ năng sống tự lập, quản lý bản thân, chủ động lên kế hoạch, thiết lập mục tiêu… Những kỹ năng này lẽ ra cha mẹ cần dạy con từ khi con còn nhỏ, trong những trường hợp dạy cho con ngay trước khi con tốt nghiệp cấp 3 cũng chưa phải quá muộn. Tuy nhiên, không phải cha mẹ nào cũng có kiến thức để có thể hỗ trợ cho con nên vai trò của các trung tâm chăm sóc sức khỏe tâm lý, tâm thần ở nhà trường là rất cần thiết. Tuy nhiên, các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam vẫn chưa chú trọng điều này. Các hội thảo quốc tế về phòng ngừa khủng hoảng – hỗ trợ sức khỏe sinh viên cho biết, ít nhất phải có một chuyên gia tâm lý trên 1.000 sinh viên. Nhưng thực tế ở Việt Nam có đến hơn 2 triệu sinh viên mà số lượng chuyên gia tâm lý chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm lý tại trường không chỉ là các chương trình gỡ rối tâm lý thông thường mà còn đưa ra các phương án dự phòng đồng thời có sự đánh giá, can thiệp cần thiết. Các chương trình phòng ngừa bao gồm: quản lý stress, quản lý cảm xúc tiêu cực, kỹ năng tương tác – xây dựng các mối quan hệ, kỹ năng giải quyết khủng hoảng – vượt qua khó khăn… Một số trường đại học có sự kết nối trung tâm tư vấn với những người làm công tác xã hội thì thật thuận tiện vì có thể tham vấn cho cả phụ huynh.