Một trong những khâu quan trọng khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là xác định giá trị doanh nghiệp. Do có nhiều yếu tố liên quan đến pháp lý, phương pháp định giá, xác định giá trị thương hiệu, lợi thế kinh doanh, tài sản vô hình, các khoản đầu tư tài chính, góp vốn bằng ngoại tệ, giá trị quyền sử dụng đất, trình độ nhân viên thẩm định… khiến Nhà nước chịu thiệt cả ngàn tỉ đồng trong thời gian gần đây.
Tại hội thảo xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa (CPH) diễn ra giữa tuần qua, ông Nguyễn Anh Tuấn, Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước Chuyên ngành VI, dẫn chứng, qua kiểm toán tám DNNN được các tổ chức tư vấn định giá xác định theo phương pháp tài sản, Kiểm toán nhà nước đã kiến nghị điều chỉnh tăng thêm vốn nhà nước trên 8.454 tỉ đồng.
Chẳng hạn, tại Công ty TNHH Lọc hóa dầu Bình Sơn, giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo báo cáo so với con số sau kiểm toán chênh lệch tới gần 4.590 tỉ đồng. Hoặc Công ty mẹ – Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam, số chênh lệch cũng lên tới hơn 2.000 tỉ đồng.
Chưa kể, có hai doanh nghiệp, nếu áp dụng theo phương pháp dòng tiền chiết khấu thì giá trị tăng thêm gần 15.690 tỉ đồng.
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, còn nhiều sai sót trong định giá và xử lý tài chính như kiểm kê sót tài sản hoặc phân loại tài sản để xử lý chưa đầy đủ. Một số đơn vị không xử lý các khoản tài chính như doanh thu, thu nhập khác, các khoản nợ phải thu, nợ phải trả. Cùng với đó là tình trạng kê khai thiếu giá trị lợi thế kinh doanh. Việc định giá quyền sử dụng đất và nhượng bán dất và tài sản trên đất sau thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Cũng tại hội thảo này, ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ quản lý Thuế doanh nghiệp lớn – Tổng cục Thuế, lưu ý có sự vênh nhau về thời điểm khi định giá doanh nghiệp và khi CPH. Đây là khoảng trống, thẩm định viên chưa có đủ thông tin, nên đến khi CPH cần kiểm toán bổ sung.
Một thực tế nữa là đến khi có kết quả kiểm toán, con số thường chênh lệch lớn, gây khó khăn đến việc xử lý. Do thiếu những quy định pháp lý, trình độ kiểm toán viên lại hạn chế, chưa thể xem xét dự báo được giá cổ phiếu tương lai nên dẫn tới tình trạng nhiều khi doanh nghiệp muốn lên sàn nhanh, mắc mưu “đội lái”. Vì thế, cần tăng cường vai trò của cơ quan kiểm toán và có cơ chế xử lý sau kiểm toán.
Thêm một lần nữa vai trò của DNNN lại được mổ xẻ tại hội thảo này. Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, bày tỏ lo ngại khi 96,5% số DNNN được CPH nhưng chỉ có 8% vốn nhà nước được chuyển giao. Chưa kể, vốn nhà nước suýt bị thất thoát khi xác định giá trị CPH.
Ông Trần Đình Thiên cho hay, qua 15 năm sắp xếp, cơ cấu lại, đến nay, số lượng DNNN đã giảm mạnh, từ hơn 6.000 của năm 2001 chỉ còn khoảng 700 doanh nghiệp vào năm 2016. Nhìn vào kết quả thì thấy ngoạn mục, khi 88% số DNNN đã chuyển đổi hình thái tồn tại, tức không còn là DNNN nữa.
Điều quan trọng, các DNNN đã giảm lĩnh vực nắm giữ, thu hẹp hoạt động, tăng không gian cho khu vực tư nhân, năm 2001 còn nắm giữ 60 ngành – lĩnh vực then chốt thì nay chỉ còn 19.
Theo ông Thiên, tuy nắm giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế, nhưng thực chất DNNN làm chưa tròn vai, chưa hoàn thành sứ mệnh dẫn dắt và tạo động lực phát triển. Thế lớn nhưng lực không mạnh. Chưa kể hiệu quả sử dụng vốn, tốc độ tăng năng suất lao động là đáng lo ngại. Trên thực tế, nhiều khi DNNN còn là yếu tố gây mất cân đối, phá vỡ ổn định vĩ mô, gây tổn thất cho nền kinh tế cả trực tiếp (mất vốn, lãng phí lớn) lẫn gián tiếp (làm méo mó môi trường kinh doanh). Tình trạng nhiều dự án ngưng trệ, nhiều doanh nghiệp thua lỗ tạo gánh nặng nợ xấu.
Vì thế, so với nguồn lực được giao, với những ưu đãi, những đặc quyền, những hỗ trợ mà Nhà nước dành cho, đặc biệt là nếu so với trách nhiệm phải gánh vác thì đóng góp của DNNN còn xa mới tương xứng.
Lý do là các DNNN hoạt động trong tình trạng tỷ lệ vốn tự có thấp hoặc rất thấp, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu cao gấp 3-10 lần. Riêng số nợ của DNNN năm 2016 lên tới 324 tỉ USD, bằng 158% GDP.
Nếu nhìn từ mục tiêu tái cơ cấu kinh tế (phân bổ lại nguồn lực từ khu vực kém hiệu quả sang khu vực sử dụng hiệu quả), kết quả CPH có thể coi là chưa đạt.
- Gia Minh