Từ một sân chơi nhỏ hẹp chỉ có hai, ba lựa chọn, phân khúc xe nhỏ bình dân tại Việt Nam hôm nay đang chứng kiến cuộc cạnh tranh sôi động cả về giá, về tính năng và thương hiệu của chục mẫu xe khác nhau. Người tiêu dùng lần đầu mua xe hơi giờ đây đã có nhiều sự lựa chọn hơn, nhưng cũng không dễ ra quyết định được ngay.
Đầu thập niên 2000, khi việc sở hữu xe ôtô tư nhân bắt đầu trở nên sôi động, nhắc tới xe nhỏ bình dân, Deawoo Matiz hay Kia CD5 là hai cái tên được nhớ tới đầu tiên. Ít tiện nghi, không thật chắc chắn, nhưng nhờ giá rẻ (trên dưới 10.000 USD), Deawoo Matiz từng một thời ngự trị phân khúc xe này.
Tuy nhiên, thời hoàng kim ấy không kéo dài được lâu vì những lựa chọn mới hấp dẫn hơn đã kịp thời xuất hiện. Ngôi vương của Daewoo Matiz được thay thế bằng Hyundai Getz, rồi Kia Morning, tiếp đó là những dòng xe có giá cao hơn nhưng thiết kế mới mẻ hơn, lại giữ được giá hơn. Lúc mới nhập về Việt Nam, Hyundai Getz có giá trên 20.000 USD. Sau đó, Kia Morning với nhiều phiên bản lựa chọn và đồ chơi, giá cũng mềm hơn Hyundai Getz đã dần chiếm lĩnh vị trí đầu bảng trong phân khúc xe nhỏ giá rẻ.
Sự ra mắt phiên bản số tự động hoàn toàn mới của Chevrolet Spark – dòng xe thay thế Deawoo Matiz, với nhiều trang bị mới và mức giá thấp hơn các đối thủ được xem là dấu hiệu quyết tâm lấy lại vị thế hàng đầu trong phân khúc xe nhỏ bình dân của GM Việt Nam. Bà Lê Thanh Hải – Giám đốc marketing và bán hàng của GM Việt Nam đã khẳng định quyết tâm này: “Chevrolet Spark phiên bản số tự động sẽ mở ra một chương mới trong cuộc sống của khách hàng. Với mức tiêu hao nhiên liệu thấp, kích thước nhỏ gọn, độ an toàn cao và giá cả cạnh tranh, chiếc xe này xứng đáng với giá trị đồng tiền”. Nỗ lực ấy liệu có mang lại hiệu quả không khi mà phân khúc xe giá rẻ hiện đang có rất nhiều lựa chọn, từ “xe giá bèo” đến từ Trung Quốc như Cherry QQ3, BYD F0 hay sắp tới từẤn Độ như Tata Nano, Tata Indica đến những dòng xe giá cao hơn như Kia Morning, Hyundai Eon, Hyundai i10, Kia Picanto…? Chúng ta cùng điểm qua vài mẫu xe nhỏ đang ít nhiều có ưu thế tại thị trường Việt Nam hiện nay:
Chevrolet Spark
Không còn là sự lựa chọn số 1 trong phân khúc xe nhỏ bình dân nhưng Chevrolet Spark vẫn có ưu thế về giá và thương hiệu khi mang trên mình logo Chevrolet. Về bản chất, chiếc xe này là sản phẩm lắp ráp trong nước (linh kiện, phụ kiện nhập từ Hàn Quốc) nhưng cái tên Chevrolet cũng như những thay đổi trong chiến lược và bộ máy hoạt động của GM Việt Nam ít nhiều đã giúp cho giá trị thương hiệu của dòng xe này cao hơn chiếc Daewoo Matiz trước đây. Nếu bỏ qua bản Spark Van (vốn không được tính là xe du lịch) thì dòng xe này hiện chỉ có hai lựa chọn là bản số sàn (giá 314 triệu đồng) và bản tự động mới ra mắt (giá 377 triệu đồng).
So với các thế hệ trước, Spark mới có khung vỏ chắc chắn hơn, động cơ cũng mạnh mẽ hơn nhờ có dung tích lớn hơn và công nghệ mới hơn. Tuy nhiên, khi so với hai đối thủ nặng ký là Kia Morning và Hyundai i10, Spark vẫn tỏ ra yếu thế hơn về khả năng vận hành.
Chevrolet Spark ra mắt tại Việt Nam
Nếu bản số sàn khá nghèo nàn về trang bị thì bản tự động lại gây bất ngờ với bốn túi khí, gương chiếu hậu điều chỉnh điện kèm chức năng sấy – những tính năng ít thấy ở xe bình dân. Spark có chiều dài cơ sở 2.375mm, chiều dài thực tế 3.595mm, chiều rộng 1.597mm, chiều cao 1.551mm và trọng lượng không tải khoảng 1.005kg. Khoảng sáng gầm xe ở mức 160mm, khá lớn so với các đối thủ. Xe có sáu màu sắc ngoại thất là trắng, đỏ, bạc, xanh lá cây, xanh dương, xanh thiên thanh. Đồng hồ trung tâm thiết kế đơn giản, dễ nhìn nhưng lại thiếu đồng hồ đo vòng tua.
Bảng đồng hồ mới của Chevrolet Spark
Chevrolet Spark sử dụng động cơ dung tích 995cm3, công suất 68 mã lực tại 6.400 vòng/phút, moment xoắn 89Nm tại 4.800 vòng/phút, đi kèm hộp số sàn năm cấp hoặc tự động bốn cấp. (Giá bán từ 314 đến 377 triệu đồng)
Kia Picanto (Kia Morning)
Có giá cao hơn Chevrolet Spark khá nhiều nhưng đại diện của nhà sản xuất là Công ty Trường Hải lại có ưu thế khi đưa ra thị trường tới sáu phiên bản khác nhau với hai cái tên song song Kia Morning (cũ) và Kia Picanto (mới). Việc có tới sáu lựa chọn về giá giúp mẫu xe này mở rộng được phân khúc khách hàng, từ các hãng xe taxi, các gia đình thu nhập trung bình khá đến những người độc thân lần đầu mua xe.
Kia Picanto
Đây cũng là dòng xe có nhiều tùy chọn trang bị đa dạng. Xe có chiều dài 3.595mm, chiều rộng 1.595mm, chiều cao 1.490mm, tức là so với phiên bản cũ thì dài hơn 66mm, cao hơn 10mm.
So với các đối thủ, Kia Picanto mới khá bắt mắt về thiết kế nội, ngoại thất. Trong cabin, điểm nhấn nằm ở màn điều khiển trung tâm với dải trang trí màu trắng kéo dài trên táp-lô từ bên lái sang bên phụ. Phiên bản cao cấp nhất được trang bị khá nhiều đồ chơi ít thấy ở các mẫu xe nhỏ vừa tiền như ghế bọc da, hệ thống điều hòa tự động, màn hình DVD tích hợp GPS và hệ thống bản đồ Vietmap, kết nối Bluetooth, cửa sổ trời hay hệ thống cảm biến lùi…
Dòng xe này có hai lựa chọn động cơ loại 1.0L và 1.2L với công suất lần lượt là 65 mã lực tại 5.500 vòng/phút và 87 mã lực tại 6.000 vòng/phút. Moment xoắn lần lượt là 98Nm tại 2.800 vòng/phút và 121Nm tại 4.000 vòng/phút. (Giá bán từ 355 đến 448 triệu đồng)
Hyundai i10
Khác với các đối thủ trong cùng phân khúc, Hyundai i10 tỏ ra khá “im hơi lặng tiếng” trong thời gian qua. Nhà sản xuất mẫu xe này chỉ lặng lẽ bổ sung thêm một phiên bản nên hiện có tới ba lựa chọn về giá cũng như động cơ. Xe có chiều dài 3.565mm, chiều rộng 1.595mm, chiều cao 1.540mm (chiều dài cơ sở 2.380mm). Khoảng sáng gầm xe tương đối nhỏ, chỉ tới mức 149mm.
Hyundai i10 có trang bị tiện nghi vừa phải với ghế nỉ, vô-lăng “gật gù”, máy điều hòa điều khiển bằng cơ, đầu CD tích hợp MP3. Bản số tự động có thêm cửa sổ trời, kính điện. Bản số sàn vẫn sử dụng kính quay tay. Hệ thống an toàn hơi nghèo nàn với hai túi khí, phanh ABS.
Xe có hai lựa chọn động cơ xăng DOHC, loại 1.1L và 1.2L, cùng tùy chọn hộp số sàn năm cấp hoặc số tự động bốn cấp. (Giá bán từ 349,8 đến 451,5 triệu đồng)
Bài Toàn Hòa
Ảnh Lê Thắng và Bobi